Khởi công đường nối sân bay Thọ Xuân với Khu kinh tế Nghi Sơn

Ngày 29/8, UBND Thanh Hóa phối hợp với các nhà thầu khởi công tuyến đường nối Cảng hàng không Thọ Xuân với Khu kinh tế Nghi Sơn. Đường rộng 14 m, tốc độ xe tối đa 80 km/h, đạt tiêu chuẩn đường cấp 3 đồng bằng.

Đại diện chủ đầu tư cho biết, đường có bề rộng 14 m, dải an toàn rộng một mét, dải phân cách rộng 2 m, tốc độ xe tối đa 80 km/h. Tổng chiều dài toàn tuyến gần 66 km, đi qua 5 huyện: gồm Thọ Xuân, Triệu Sơn, Như Thanh, Nông Cống và Tĩnh Gia. Dự kiến công trình được xây dựng trong 3 năm với điểm đầu giao quốc lộ 47 (thuộc huyện Thọ Xuân), điểm cuối giao quốc lộ 1A tại địa phận Khu kinh tế Nghi Sơn (huyện Tĩnh Gia).

Tuyến đường nối cảng hàng không THọ Xuân đi Khu kinh tế Nghi Sơn dài gần 66 km.

Dự án có tổng vốn đầu tư gần 4.600 tỷ đồng do liên danh nhà đầu tư gồm Tổng Công ty CP Đầu tư xây dựng và thương mại miền Trung, Tổng Công ty 319 (Bộ Quốc phòng) và Công ty CP Tập đoàn Đầu tư Xây dựng Cường Thịnh Thi. 

Dự án hoàn thành sẽ đáp ứng nhu cầu vận tải ngày càng tăng cao, cải thiện điều kiện khai thác giao thông từ Cảng hàng không Thọ Xuân đi Khu kinh tế Nghi Sơn; phục vụ phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh, phù hợp với quy hoạch và định hướng phát triển giao thông vận tải.

Phát biểu tại buổi lễ, Phó thủ tướng Hoàng Trung Hải đánh giá, đây là dự án lớn, có tầm chiến lược quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội không chỉ riêng tỉnh Thanh Hóa mà cả khu vực bắc miền Trung.

Để dự án được thực hiện theo đúng tiến độ, Phó thủ tướng yêu cầu tỉnh Thanh Hóa tập trung cho công tác giải phóng mặt bằng với thời gian nhanh nhất có thể. Ngoài ra, cần giám sát chặt chẽ thi công để công trình đảm bảo chất lượng, tránh gây thất thoát, lãng phí nguồn vốn.

Lê Hoàng

Chị em song sinh đỗ thủ khoa, á khoa đại học

Là hai chị em sinh đôi trong một gia đình nghèo, Phạm Thị Việt Hương và Phạm Thị Việt Hà (xã Xuân Hòa, huyện miền núi Như Xuân, Thanh Hóa) đã vươn lên học giỏi và đã đỗ thủ khoa và á khoa trong kỳ thi đại học năm 2014.

Những ngày gần đây, Làng Thanh niên lập nghiệp Sông Chàng (huyện miền núi Như Xuân, Thanh Hóa) bỗng trở nên sôi động hơn bởi tin vui hai chị em Phạm Thị Việt Hà đỗ thủ khoa Học viện Hành chính Quốc gia với số điểm 25,75 và Phạm Thị Việt Hương, á khoa Trường ĐH Luật Hà Nội với 24,25 điểm.

Điều bất ngờ là Hương và Hà là hai chị em sinh đôi (Hương là chị, Hà là em) trong một gia đình nghèo. Bên trong ngôi nhà rộng khoảng hơn 40 m2, tài sản quý giá nhất có lẽ là những tấm bằng khen, giấy khen của hai chị em trong 12 năm học.

Hai chị em song sinh Phạm Thị Việt Hương (á khoa Trường ĐH Luật Hà Nội) và Phạm Thị Việt Hà (thủ khoa Học viện Hành chính Quốc gia).

Hương kể: Từ khi học THCS, hai chị em đã phải tự đạp xe đến lớp với quãng đường từ nhà đến trường gần 10 km. Nhà có hai chiếc xe “cọc cạch”, nhưng hai chị em mỗi người phải đi một cái để lỡ xe của một trong hai bị hỏng thì chị đạp, em dắt xe và vẫn chở nhau về nhà được.

Đường đi đầy ổ gà, ổ trâu nên xe thường xuyên bị thủng săm, hỏng lốp, hư hỏng dọc đường, vì vậy có nhiều hôm hai chị em đi học mà trời tối mới về được đến nhà.

Hai chị em Hương và Hà đang cùng phụ giúp bố mẹ làm vườn.

Vất vả là vậy nhưng hai chị em vẫn luôn có ý thức học tập. Suốt 12 năm học, hai chị em luôn đạt danh hiệu học sinh giỏi và thay nhau giữ vị trí nhất, nhì của lớp. Kinh tế gia đình khó khăn nên Hương và Hà không có điều kiện đi học thêm, chủ yếu là hai chị em tự học ở nhà. 

Hương đam mê với môn Sử, Hà lại học xuất sắc môn Địa lý. Khi học, hai chị em luôn cùng nhau thảo luận, kiểm tra, bổ sung kiến thức cho nhau; cùng tranh luận về cách làm bài, phương pháp học tốt nhất... Ngoài giờ học, hai chị em còn giúp bố mẹ những công việc nhà, làm vườn, làm đồi.

Ông Phạm Ngọc Ninh - bố hai em Hương và Hà - tâm sự: Khi các em đi thi, gia đình cũng chỉ mong hai chị em đỗ đại học. Nhưng khi bạn học cùng lớp báo điểm thi cho hai chị em, gia đình không ngờ Hà và Hương lại đỗ thủ khoa và á khoa của trường đại học. 

Gia đình đã rất vui mừng và tự hào. Dù sẽ có nhiều khó khăn khi cùng lo cho hai chị em học đại học, nhưng gia đình sẽ cố gắng khắc phục để các em thực hiện được ước mơ của mình.

Nguyễn Quỳnh
Giáo dục & Thời đại

Lê Hoàn - lưu danh hậu thế

“Vua đánh đâu được đấy: Chém vua Chiêm Thành để rửa mối nhục bị bọn phiên di bắt giữ sứ giả của mình; đánh tan quân của vua nước Tống là người vốn dòng họ Triệu, mau chóng đập tan mưu đồ của họ. Có thể coi vua là đấng anh hùng nhất đời vậy”.


Ngô Sĩ Liên
(Đại Việt sử kí toàn thư, bản kỉ, quyển l)

1. ĐẠI LƯỢC VỀ LÍ LỊCH

Sách Đại Việt sử lược1 chép rằng Lê Hoàn người Trường Châu 2, nhưng sách Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 1, tờ 13-a) lại nói Lê Hoàn người Ái Châu 3. Sử cũ chép không nhất quán, song, các cuộc khảo sát sau này đều cho kết quả chung, rằng Lê Hoàn người làng Trung Lập, Ái Châu, nay làng này thuộc huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa.

Các bộ chính sử và dã sử xưa đều chép rằng Lê Hoàn sinh ngày 15 tháng 7 năm Tân Sửu (tức năm 941) tại Ái Châu. Thân sinh của Lê Hoàn là Lê Mịch, thân mẫu người họ Đặng nhưng chưa rõ tên là gì. Gia đình Lê Hoàn thuộc tầng lớp nghèo khổ ở Ái Châu, đã thế, cả thân sinh lẫn thân mẫu đều nối nhau qua đời sớm, cho nên, tuổi thơ của Lê Hoàn đầy gian nan, cơ cực. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục (chính biên, quyển 1, tờ 14 và 15.) chép rằng:

“Trước kia, mẹ của vua là Đặng Thị, khi đang có thai bỗng nằm mơ thấy bụng mình nở ra hoa sen và hoa sen ấy kết thành hạt ngay. Đặng Thị lấy chia cho mọi người nhưng mình lại không ăn. Tỉnh dậy (Đặng Thị) lấy làm lạ lắm. Đến khi sinh con thấy con có dáng mạo khác thường, Đặng Thị nói với mọi người rằng:

- Thằng bé này về sau ắt sẽ làm nên cơ nghiệp lớn, chỉ tiếc là tôi chẳng kịp hưởng lộc mà thôi.

Được độ vài năm, thân mẫu rồi thân sinh (của Lê Hoàn) đều mất. Khi ấy, có viên quan giữ chức Quan Sát ở Ái Châu người họ Lê (hiện chưa rõ tên), thấy Vua có dáng mạo khác thường, bèn nhận làm con nuôi. Một năm, trời mùa đông rét mướt, Vua phải nằm phục xuống như hình cối úp (cho đỡ rét), chẳng dè đêm đến, cả nhà rực ánh sáng lạ bởi có con rồng vàng nằm che trên Vua. Viên quan họ Lê càng lấy làm lạ.

Khi lớn lên, vua từng giúp việc cho Nam Việt Vương (Đinh) Liễn (con trai trưởng của Đinh Tiên Hoàng – NKT), tỏ ra có tài trí và chí lớn hơn người. (Đinh) Tiên Hoàng khen là người có mưu lược và khỏe mạnh, lúc đầu giao cho cai quản hai ngàn quân, sau thăng dần đến chức Thập Đạo Tướng Quân 4, Điện Tiền Chỉ Huy Sứ”.

Đinh Tiên Hoàng có ba người con trai được sử sách chép tới. Con trưởng là Đinh Liễn, người từng cùng Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn mười hai sứ quân. Tháng năm (nhuận) năm Kỉ Tị (969), Đinh Liễn đã được phong làm Nam Việt Vương. Năm Nhâm Thân (972) Nam Việt Vương Đinh Liễn được cử làm sứ giả sang nhà Tống. Năm Ất Hợi (975) Nam Việt Vương Đinh Liễn được nhà Tống phong làm Khai Phủ Nghi Đồng Tam Ti, hàm Kiểm Hiệu Thánh Sư, tước Giao Chỉ Quận Vương. Tóm lại, việc kế vị trong tương lai của Đinh Liễn đã rất rõ. Nhưng, tháng giêng năm Mậu Dần (978), Đinh Tiên Hoàng vì quá yêu mến người con út còn nhỏ tuổi là Hạng Lang nên đã lập Hạng Lang làm Thái Tử. Việc này khiến cho Đinh Liễn uất ức. Đầu năm Kỉ Mão (979), Đinh Liễn đã giết chết Hạng Lang. Và đến tháng mười năm ấy, thì cả Đinh Tiên Hoàng lẫn Đinh Liễn đều bị bề tôi nhỏ là Đỗ Thích giết hại.

Con thứ của Đinh Tiên Hoàng là Đinh Toàn, do bà Hoàng Hậu Dương Vân Nga sinh hạ vào năm Giáp Tuất (974). Năm Mậu Dần (978), khi Hạng Lang được phong làm Thái Tử thì Đinh Toàn được phong làm Vệ Vương. Cuối năm 979, khi Đỗ Thích giết hại cả Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn, triều đình bèn tôn Đinh Toàn (lúc này mới 5 tuổi) lên ngôi Hoàng Đế. Tháng 7 năm Canh Thìn (980), trước nguy cơ bị quân Tống xâm lăng, triều đình bèn tôn quan Thập Đạo Tướng Quân là Lê Hoàn lên ngôi Hoàng Đế. Đinh Toàn bị giáng làm Vệ Vương như cũ và được Lê Hoàn thương như con đẻ của mình. Năm Tân Sửu (1001), Đinh Toàn mất khi cùng với Lê Hoàn di đánh dẹp ở Cử Long (vùng người Mường, nay thuộc huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa.), hưởng dương 27 tuổi.

Người con út là Hạng Lang, bị giết khi còn quá nhỏ, không để lại chính tích gì đáng kể.

Như vậy là Lê Hoàn được tôn lên ngôi Hoàng Đế trong hoàn cảnh đặc biệt khó khăn của đất nước. Bá quan văn võ đã tin ở Lê Hoàn và Lê Hoàn cũng đã thực sự xứng đáng với niềm tin lớn lao đó. Từ đây, triều Lê được dựng lên. Để phân biệt với triều do Lê Lợi dựng lên sau này, sử gọi triều Lê mở đầu từ Lê Hoàn là triều Tiền Lê. Ngay sau khi lên ngôi, Lê Hoàn đã lãnh đạo cả nước đập tan hoàn toàn cuộc xâm lăng của quân Tống vào năm 981, và ngay năm sau (982) lại trừng trị đích đáng hành vi quấy phá của Chiêm Thành. Khi biên giới mặt Bắc và mặt Nam đều đã được ổn định, Lê Hoàn đã tiến hành xây dựng và củng cố sức mạnh của đất nước. Lê Hoàn ở ngôi 25 năm (980 – 1005) và trong thời gian ở ngôi, đã dùng ba niên hiệu khác nhau:

- Thiên Phúc (980-988) vốn là niên hiệu cũ của Đinh Toàn.

- Hưng Thống (989 – 993).

- Ứng Thiên (994 – 1005).

Tháng 3 năm Ất Tị (1005), Lê Hoàn mất vì bệnh, hưởng thọ 65 tuổi. Người đời và cả một số ít sử sách vẫn gọi Lê Hoàn là Lê Đại Hành, nhưng các sử thần lỗi lạc, cũng là các bậc danh Nho thuở xưa thì không đồng ý như vậy. Bảng Nhãn Lê Văn Hưu (1230 – 1322) nói:

“Thiên Tử và Hoàng Hậu, khi mới băng, chưa chôn vào sơn lăng thì gọi là Đại Hành Hoàng Đế hoặc Đại Hành Hoàng Hậu. Đến khi đã táng vào sơn lăng yên ổn đâu đó rồi thì họp bầy tôi lại để bàn định đức hạnh hay dở mà đặt thụy hiệu, không gọi là Đại Hành nữa. Nhưng, Lê Hoàn thì lấy Đại Hành làm thụy hiệu rồi truyền mãi đến nay là vì sao? ấy là vì (Lê) Ngọa Triều là đứa con bất tiếu, triều đình lại không có bề tôi Nho học để bàn giúp việc đặt thụy hiệu nên mới đến nỗi như thế” (Đại Việt sử kí toàn thư, bản kỉ, quyển 1, tờ 25-a).

Lê Hoàn có 12 người con trai, gồm 11 người con ruột và 1 người con nuôi. Tiếc thay, nếu Lê Hoàn là biểu tượng nổi bật của tinh hoa lịch sử trong thế kỉ thứ 10, thì các con trai của ông lại chỉ có đức hạnh rất tầm thường. Đó chính là nguyên do dẫn đến sự cáo chung của triều Tiền Lê vào cuối năm 1009.

Triều Tiền Lê do Lê Hoàn sáng lập truyền nối được ba đời, kéo dài tổng cộng 29 năm, gồm: Lê Hoàn (980 – 1005), Lê Trung Tông (ở ngôi 3 ngày của tháng 11 năm 1005) và Lê Long Đĩnh tức Lê Ngọa Triều (1005-1009). Tất cả sự nghiệp lớn của triều Tiền Lê đều do Lê Hoàn tạo lập nên. Cống hiến của Lê Hoàn trải rộng trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên, tên tuổi của Lê Hoàn sở dĩ trở nên bất diệt với lịch sử, trước hết và chủ yếu là nhờ ở tài thao lược tuyệt vời. Lê Hoàn là một trong những vị danh tướng của nước nhà.

2. LÊ HOÀN VỚI TRẬN ĐẠI PHÁ QUÂN TỐNG XÂM LĂNG NĂM 981

Quân Tống xâm lược nước ta

Năm 960, Triệu Khuông Dận đã thống nhất được phần lớn lãnh thổ Trung Quốc và lập ra nhà Tống. Thời Ngũ Đại Thập Quốc của Trung Quốc chấm dứt kể từ đó. Nhà Tống kéo dài trước sau tổng cộng hơn ba trăm năm (960 – 1278). Tuy cơ đồ cũng lắm phen thăng trầm nghiêng ngửa, nhưng chính triều đại này đã hai lần xua quân sang xâm lược nước ta. Lần thứ nhất là năm 981, bị Lê Hoàn đánh cho đại bại và lần thứ hai là năm 1077, bị Lý Thường Kiệt đánh cho tan tành.

Khi ở nước ta, nội bộ triều Đinh liên tục khủng hoảng và xung đột, thì ở Trung Quốc, triều Tống đã trải hai mươi năm xây dựng và củng cố. Tham vọng bành trướng xuống phương Nam ngày càng rõ rệt và mãnh liệt hơn. Sách Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 1, tờ 9 a-b) chép về mưu đồ của nhà Tống như sau:

“Mùa hạ, tháng 6 (năm Canh Thìn, 980 – NKT), quan giữ chức Tri Châu của Châu Ung bên nước Tống là Thái Thường Bác Sĩ Hầu Nhân Bảo, dâng thư tâu lên vua Tống rằng:

- An Nam Quận vương (chỉ Đinh Tiên Hoàng – NKT) và con của hắn là (Đinh) Liễn đã bị giết, nước ấy sắp đổ, có thể nhân cơ hội này mà cho quân sang đánh lấy. Nếu bỏ qua việc mưu tính lúc này, sợ lỡ mất cơ hội. Vậy, xin cho thần được về cửa khuyết để tâu bày trực tiếp chuyện có thể đánh lấy được.

Vua Tống định sai người theo đường dịch trạm, đến gọi Hầu Nhân Bảo về, nhưng bề tôi là Lư Đa Tốn nói:

- An Nam hiện đang rối loạn từ bên trong, đó chính là lúc trời khiến phải mất, triều đình ta nên bất ngờ cho quân sang đánh úp, nhanh như người đời vẫn nói là sét đánh không kịp bịt tai. Nay, nếu cứ gọi Hầu Nhân Bảo về bàn định trước thì mưu này nhất định sẽ bị bại lộ, khiến cho kẻ kia (chỉ nước ta – NKT) biết được rồi dựa vào núi ngăn biển cách mà phòng bị, thì cái thế được thua chưa biết sẽ ra sao. Vậy, chi bằng hãy giao cho Hầu Nhân Bảo ngầm đem quân sang, theo lệnh mà lo liệu việc ấy, cho được chọn tướng và đem ba vạn quân Kinh Hồ (quân đội lấy người ở các tỉnh Hồ Nam và Hồ Bắc ngày nay. Thời Tống, đất này gọi là Kinh Lộ và Hồ Lộ (Lộ là đơn vị hành chính địa phương – NKT)) thẳng tiến sang, tạo ra cái thế vạn toàn, chẳng khác gì bẻ cành khô hay xô cây gỗ mục, không lo gì tốn người hao tên cả.

Vua Tống cho là phải.

Mùa thu, tháng bảy (năm Canh Thìn, 980 – NKT), ngày Đinh Mùi (ngày 16 – NKT), nhà Tống lấy Hầu Nhân Bảo làm Giao Châu Lục Lộ Thủy Lộ Chuyển Vận Sứ, Tôn Toàn Hưng làm Lan Lăng Đoàn Luyện Sứ, Hác Thủ Tuấn làm Tất Tác Sứ, Trần Khâm Tộ làm An Bí Khố Sứ, Thôi Lượng làm Ung Châu Lộ Binh Mã Đô Bộ Thự, Lưu Trừng làm Ninh Châu Thứ Sử, Giả Thực làm Quân Khí Khố Sứ, quan giữ chức Cung Phụng Quan Cáp Môn Chi Hậu là Vương Soạn làm Quảng Châu Binh Mã Đô Bộ Thự… Tất cả cùng họp quân và hẹn ngày sang đánh nước ta”.

Như vậy là, từ quan trấn giữ biên ải như Hầu Nhân Bảo đến quan hầu cận trong triều như Lư Đa Tốn, rồi cả đến vua Tống cũng đều quyết chí xâm lược nước ta. Chúng gặp nhau trong âm mưu bất ngờ tấn công ta khi mà nội bộ nước ta đang gặp những bế tắc không nhỏ.

Lê Hoàn đại phá quân Tống.

Khi quân Tống chuẩn bị xâm lược nước ta, Lê Hoàn đang là phó Vương, lo việc Nhiếp Chính thay cho nhà vua lúc bấy giờ là Đinh Toàn mới 5 tuổi. Thực tế này khiến cho Định Quốc Công là Nguyễn Bặc, Ngoại Giáp là Đinh Điền và Phạm Hạp nghi ngờ rằng Lê Hoàn sẽ cướp ngôi. Họ hợp mưu dấy binh, quyết giết Lê Hoàn. Sách Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 1, tờ 7-b) chép rằng:

“Thái, Hậu (chỉ bà Dương Vân Nga – NKT) nghe được tin ấy lo sợ báo với Lê Hoàn rằng:

- Bọn (Nguyễn) Bặc dấy binh làm loạn, khiến cho cả nước phải kinh hoàng. Nay vua còn nhỏ tuổi, chưa thể kham nổi việc trừ nạn, vậy, các ông nên sớm liệu đi, chớ để tai họa về sau.

Lê Hoàn đáp:

- Thần ở chức Phó Vương, giữ quyền Nhiếp Chính, dù tai họa sống chết thế nào cũng đều phải đảm đương trách nhiệm.

Nói rồi, (Lê Hoàn) chỉnh đốn quân ngũ, đánh nhau với (Đinh) Điền và (Nguyễn) Bặc ở Tây Đô5.
Bọn (Đinh) Điền và (Nguyễn) Bặc thua chạy. Sau, họ lại đem thủy quân ra đánh, nhưng lại bị Lê Hoàn nhân chiều gió thuận mà phóng lửa đốt hết (Đinh) Điền bị chém tại trận còn (Nguyễn) Bặc thì bị bắt đóng cũi đem về kinh sư (chỉ Hoa Lư, Ninh Bình – NKT). (Lê Hoàn) kể tội (Nguyễn Bặc) như sau:

- Tiên Đế (chỉ Đinh Tiên Hoàng – NKT) gặp nạn, thần nhân và người trong thiên hạ đều vừa thẹn vừa căm. Người là kẻ bề tôi, vậy mà nhân lúc bối rối lại dấy binh bội nghĩa. Phận làm tôi có đâu lại thế?

Nói rồi bèn đem (Nguyễn Bặc) chém đầu.

(Đinh) Điền và (Nguyễn) Bặc đã chết, quân của Phạm Hạp cũng mất hết cả khí thế, tan tác chạy về làng Cát Lợi ở Bắc Giang (nay thuộc Hà Bắc – NKT). (Lê) Hoàn đuổi theo, bắt sống được Phạm Hạp, giải về kinh sư”.

Khi Lê Hoàn vừa dẹp xong sự phản kháng của Đinh Điền, Nguyễn Bặc và Phạm Hạp thì quân Tống cũng vừa áp sát biên giới nước ta. Tình hình rất nguy cấp. Sách trên (tờ 9-b và tờ 10-a) chép tiếp:

“Thái Hậu sai Lê Hoàn chọn dũng sĩ để đi đánh giặc, lại lấy Phạm Cự Lượng người ở Nam Sách Giang (nay thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Hưng – NKT) làm đại tướng. Khi triều đình đang họp bàn kế xuất quân, Phạm Cự Lượng cùng các tướng, mặc nguyên áo trận, đi thẳng vào Nội Phủ, nói với mọi người rằng:

- Thưởng người có công, giết kẻ trái mệnh là phép sáng để làm việc quân. Nay, Chúa thượng còn trẻ thơ, chúng ta dẫu có hết sức liều mạng để đánh ngoại xâm rồi lập được chút công lao thì ai sẽ là người biết cho? Chi bằng trước hãy tôn lập quan Thập Đạo Tướng Quân (chỉ Lê Hoàn – NKT) làm Thiên Tử rồi sau mới xuất quân thì tốt hơn.

Quân sĩ nghe vậy liền hô vang: Vạn Tuế!

Thái Hậu thấy lòng người quy phục, bèn sai lấy tấm Long Cổn (áo thêu hình rồng cuộn, dành riêng cho nhà vua – NKT) khoác lên người Lê Hoàn và mời Lê Hoàn lên ngôi Hoàng Đế”.

Sự kiện này xảy ra vào tháng 7 năm Canh Thìn (980). Ngay sau khi lên ngôi, Lê Hoàn lập tức bắt tay vào công cuộc kháng chiến chống Tống. Để có thêm thời gian hòa hoãn hết sức cần thiết cho việc chuẩn bị, Lê Hoàn đã nhân danh Đinh Toàn, gởi thư cho triều đình nhà Tống “xin được làm phiên thần” của nhà Tống, lời lẽ rất mềm dẻo. Nhưng vua Tống không nghe, lập tức gởi tối hậu thư cho Lê Hoàn, bắt phải đầu hàng.

Và cuộc đối đầu lịch sử giữa quân Tống xâm lăng với quân sĩ nước ta do Lê Hoàn cầm đầu đã diễn ra vào tháng 3 năm Tân Tị (981). Sách Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 1, tờ 14-a) chép về diễn biến của cuộc đối đầu này như sau:

“Mùa xuân, tháng ba, bọn Hầu Nhân Bảo và Tôn Toàn Hưng đến Lãng Sơn (tên một hòn đảo, cũng là tên một vùng đất thuộc Quảng Ninh ngày nay. Nhiều sách vở đã nhầm Lãng Sơn ra Lạng Sơn – NKT), Trần Khâm Tộ đến Tây Kết, Lưu Trừng đến sông Bạch Đằng. Vua (đây chỉ Lê Hoàn – NKT) tự làm tướng cầm quân đi đánh giặc. Trước hết, (Vua) sai quân sĩ đóng cọc để ngăn sông. Quân Tống rút lui về sông Chi Lăng (tức sông Thương – NKT). Đến đây, Vua sai quân sĩ giả vờ hàng để dụ Hầu Nhân Bảo, nhân đó, bắt được Hầu Nhân Bảo rồi đem chém. Bọn Trần Khâm Tộ nghe tin thủy quân đã thua trận, cũng vội rút về. Vua đem các tướng tới đánh. (Trần) Khâm Tộ thua to, quân sĩ bị giết đến quá nửa, thây người la liệt đầy đồng. Các tướng giặc như Quách Quân Biện và Triệu Phụng Huân đều bị bắt giải về Hoa Lư. Từ đó, nước nhà mới được yên. Bầy tôi vui mừng, xin dâng tôn hiệu (cho Vua) là Minh Càn Ứng Vận Thần Vũ Thăng Bình Chí Nhân Quảng Hiếu Hoàng Đế”.

Tuy chỉ được chuẩn bị trong một thời gian hết sức ngắn ngủi và trong một điều kiện cực kì khó khăn, nhưng, với quyết tâm cao độ, với năng lực chỉ huy tuyệt vời, Lê Hoàn đã quét sạch quân Tống bằng một trận kết hợp tài tình giữa thủy binh với bộ binh. Trận thắng kiệt xuất này đã khiến cho nhà Tống vừa căm giận, vừa rất kính nể Lê Hoàn. Sau, hai bên giao hảo, vua Tống đã tấn phong cho Lê Hoàn, thế mà nhận chiếu thư, Lê Hoàn không lạy, sứ giả cũng không dám bắt lỗi, Lê Hoàn bảo sứ giả nhà Tống cứ dừng ở biên cương rồi chuyển đạt công văn đến chứ đừng bước vào sâu trong đất ta, chúng cũng đành phải nghe lời. Lê Hoàn từng rửa hận bằng cách thi thoảng lại cho quân sang cướp phá Như Hồng (tên một trấn của Trung Quốc – NKT). Sứ giả của nhà Tống là Lý Nhược Chuyết đến nước ta vào năm Bính Thân (996) có tỏ ý trách cứ việc này, Lê Hoàn liền nói: “Việc cướp bóc trấn Như Hồng là do bọn giặc ở cõi ngoài, chẳng hay Hoàng Đế (chỉ vua Tống – NKT) – có biết rằng đó chẳng phải là quân của Giao Châu hay không. Còn như nếu Giao Châu (chỉ nước ta – NKT) mà muốn làm phản, thì đầu tiên sẽ đánh vào Phiên Ngung, thứ đến đánh Mân Việt (cả hai đều ở phía Nam của Trung Quốc ngày nay – NKT), chớ đâu có chịu dừng lại ở trấn Như Hồng mà thôi!”.6.

Vua Tống đã phải dồn căm giận lên đầu những viên bại tướng của nhà Tống. Vương Soạn bị giết chết ở Ung Châu, Tôn Toàn Hưng bị chém bêu đầu ở chợ, Lưu Trừng thì hoảng sợ rồi ốm mà chết.

Tên tuổi Lê Hoàn trong tâm tưởng của các cây đại bút.

Với thắng lợi trọn vẹn của mình, Lê Hoàn đã có công giữ vững độc lập và chủ quyền của quốc gia. Tên tuổi của ông được đời đời ghi nhớ, sự nghiệp của ông (được trăm họ tri ơn. Các cây đại bút, cũng là những sử thần lỗi lạc thuở xưa đã trân trọng chép những lời tôn kính Lê Hoàn. Các tác giả của bộ Đại Việt sử kí toàn thư viết: “Vua trừ được bọn gian thần trong nước rồi được tôn lên ngôi, đuổi giặc ngoài để yên dân, khiến cho quốc gia thanh bình, Bắc Nam vô sự”.7.

Bảng Nhãn Lê Văn Hưu (1230 – 1322) viết:

“Lê Đại Hành giết Đinh Điền, bắt Nguyễn Bặc rối tóm bọn (Quách) Quân Biện, (Triệu) Phụng Huân dễ như lùa trẻ con, như sai lũ nô lệ, chưa đầy vài năm mà đã định yên được bờ cõi, công đánh dẹp và thắng trận, cho dẫu là nhà Hán hay nhà Đường (tên hai triều đại lớn của Trung Quốc – NKT) cũng không thể hơn được”8.

Trong Lịch triều hiến chương loại chí (nhân vật chí), sử gia lỗi lạc thời Nguyễn là Phan Huy Chú (1782 – 1840) đã viết về Lê Hoàn như sau:

“Vua phá Tống, bình Chiêm, khiến cho cả Hoa Hạ và man di đều sợ hãi. Trung Quốc đã mấy lần sách phong khen ngợi Vua, khiến cho tiếng tăm của Vua trở nên lừng lẫy. Nói về việc trị nước thì Nhà vua luôn chăm lo đến những điều cần của dân, dốc lòng lo cho chính sự, trọng nông nghiệp, cẩn trọng nơi biên cương, quy định pháp chế tuyển dân làm lính, lại còn đổi chia các trấn… quả là rất cố gắng chăm chỉ”.

Năm 1981, giới sử học Việt Nam đã long trọng tổ chức hội thảo khoa học và lễ kỉ niệm 1.000 năm ngày Lê Hoàn đại phá quân Tống. Một lần nữa, tên tuổi của Lê Hoàn lại được kính cẩn đề cao, sự nghiệp của Lê Hoàn được hậu thế tưởng nhớ. 

Hàm rồng - Lung linh một vùng danh thắng xứ Thanh

Hàm Rồng, địa danh đã đi vào lịch sử như những trang chói lọi nhất trong cuộc kháng chiến chông giặc ngoại xâm của dân tộc. Hàm Rồng cũng là thắng cảnh kỳ thú làm say lòng “tao nhân mặc khách”.


Vùng đất Hàm Rồng từ rất xa xưa đã rất nổi tiếng bởi phong cảnh hữu tình và hàm chứa nhiều di tích lịch sử văn hóa, cách mạng và những truyền thuyết còn sống mãi với thời gian. Vùng đất uốn lượn theo dòng sông Mã với 99 ngọn núi đá, núi đất nhấp nhô tạo dáng hình con rồng. Trên núi có động Long Quang (mắt rồng) rất đẹp. Dưới núi có nhiều tảng đá lởm chởm trông như hàm rồng đang hút nước sông Mã. Núi Hàm Rồng là mỏm núi cuối cùng của dãy núi chạy dài bên hữu ngạn sông Mã từ làng Dương Xá đến cầu Hàm Rồng. là núi đất lẫn đá nhưng mỏm Hàm Rồng thì toàn đá…

Cảnh quan thiên nhiên, môi trường sinh thái nơi đây đã hình thành ra làng  Đông Sơn dưới chân núi rồng có nền văn minh cổ tiêu biểu cho thời kỳ văn hóa Đông Sơn rực rỡ và là pháo đài thép trong chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Làng Đông Sơn quần tụ dựa vào lưng núi Rồng. Phía trước làng là cánh đồng rộng màu mỡ, xung quanh 3 phía của làng là những núi đá nhỏ, đồi thấp dần nằm xen kẽ lẫn nhau có hình dáng kỳ dị, dân gian đã đặt tên cho từng quả đồi, ngọn núi: Núi Rồng, núi Phượng, núi Voi, núi Cánh Tiên…Làng Đông Sơn ở vào thế đất 99 ngọn núi hình con Phượng Hoàng. Ca dao cổ ở đây đã nhắc đến 99 ngọn núi này với niềm tự hào mãnh liệt: 

Chín mươi chín ngọn bên đông
Còn ngọn núi Nít bên sông chưa về
Chín mươi chín ngọn đề huề
Còn ngọn núi Nít chưa về bên đông. 

Non nước Hàm Rồng được bàn tay của tạo hóa xếp đặt vô cùng kỳ vỹ cùng với nhiều di tích đã tạo ra vùng đất: 

Thanh Hóa thắng địa là đây
Rồng vờn hạt Ngọc, Hạc bơi chân thành.

Không phải ngẫu nhiên mà vào năm 1478 vua Lê Thánh Tông sau lần bái yết Sơn lăng, thuyền ngự dừng chèo dưới chân động Long Quang theo lối mòn ngược lên động, trước cảnh trời nước hữu tình của vùng thắng tích nhà vua đã làm bài thơ “ Đề động Long Quang” và cho khắc vào vách động: 

Đất này tươi tốt lạ lùng thay
Vũ trụ dồn đong khóe mắt đầy
Bái biệt Sơn lăng thuyền ngự lướt
Vào thăm động biếc thợ trời xây
Mây rơi đầy đất nhờ ai quét
Nhà trống thấu trời mượn đá xây
Đây núi kia rừng…tiên phật quá
Như mời du khách đến cùng say. 

Năm 1501, vua Lê Hiến Tông con vua Lê Thánh Tông đến động Long Quang cũng đã làm thơ vịnh: 

Động xuyên lưng núi sáng trong ngoài
Sức chứa muôn phương gió thổi hoài
Bát ngát cành xanh xuân gặp khách
Bạt ngàn hoa thắm núi chờ ai…

Xưa kia, khi chưa có cầu, nhân dân hai bờ qua lại bằng đò ngang. Đầu thế kỷ 20, C.A Ra Gông - một chuyên gia về cầu ở Đông Dương, khi khảo sát để bắc cầu, đã nêu ra những cái khó ở đoạn sông Hàm Rồng: đáy sông đầy hang huyệt, nên không thể xây trụ giữa được, lũ lụt hàng năm không cho phép kéo dài thời gian thi công trên mặt nước (trước đó, cuối thế kỷ 19, thực dân Pháp thuê kỹ sư Đức bắc cầu có trụ ở đây, cầu chưa xong đã bị lũ lớn cuốn mất, ông kỹ sư người Đức đã nhảy xuống sông tự vẫn). Chính vì thế thực dân Pháp phải xây cầu treo, hai kỹ sư người Pháp là Đay - Đê và Pillê thiết kế, chỉ đạo thi công, cầu treo gối lên sườn hai ngọn Châu Phong (bờ Bắc) và Mắt Rồng (bờ Nam). Cầu treo hình cánh cung bán nguyệt thi công trong 4 năm (1904 - 1908). Khẩu độ hẹp ô tô và tàu hoả không thể qua một lúc được. Chiếc cầu cánh cung xưa và cầu thép có trụ hiện nay là điểm trung tâm của toàn cảnh Hàm Rồng.

Thi sĩ Tản Đà có bài cảm tác "Qua cầu Hàm Rồng":

Hôm xưa chơi ở Dương Quỳ
Trắng phau ngựa trắng xanh rì rừng xanh
Hàm Rồng nay lại qua Thanh
Dưới cầu nước biếc in hình thi nhân
Người đâu sương tuyết phong trần
Non xanh nước biếc bao lần vãng lai.

Kháng chiến chống Pháp, năm 1946, quân dân ta phá sập chiếc cầu cánh cung do Pháp xây dựng. Hoà bình lập lại, năm 1961, đội cầu Trần Quốc Bình (Trung Quốc) thiết kế cầu mới có trụ và cán bộ công nhân ta thi công. Cầu vẫn được đặt trên hai hố cũ, nhưng có trụ giữa bằng 12 trụ ống, mỗi trụ đường kính xoáy sâu. Tháng 06 năm 1963, chiếc cầu hữu nghị được thông xe. Cầu mới dài 168 mét, chắc chắn hơn, to đẹp hơn, trọng tải lớn hơn cầu cũ nhiều. Đó là một kỳ công của kỹ sư và công nhân ta.

Kháng chiến chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, chiếc cầu đó đã làm giảm uy lực của không quân Hoa Kỳ, 117 máy bay tối tân của Mỹ đã bị quân dân ta bắn cháy, vùi xác dưới đáy sông. Sau những ngày mưa bom bão đạn, cầu Hàm Rồng vẫn đứng hiên ngang, nối liền hai bờ Bắc Nam cho đến ngày đất nước toàn thắng, Nghĩa trang liệt sĩ linh thiêng sườn đồi Quyết thắng ngày đêm hương khói tưởng nhớ những liệt sĩ anh hùng đã hy sinh bảo vệ non nước này. Một chính khách nước ngoài đến thăm Hàm Rồng đã phải thốt lên: "Thật kỳ lạ, trong lịch sử chiến tranh phá hoại bằng không quân trên thế giới, chưa có chiếc cầu nào được bảo vệ lâu đến như vậy". Cây cầu thép hiện nay đang sử dụng đã được các kỹ sư Việt nam sửa lại năm 1974, hàng ngày vẫn soi bóng xuống lòng sông chói ngời dấu ấn chiến thắng.

Còn đó đồi C4 anh hùng một trong những trận địa pháo cao xạ lừng danh nhất trên mãnh đất Hàm Rồng. Còn đó di tích Nhà máy điện Hàm Rồng anh hùng, Đồn công an Hàm Rồng anh hùng. Còn đó sừng sững hai chữ “Quyết Thắng” trên núi Cánh Tiên được xếp bằng hàng ngàn khối đá của quân dân Hàm Rồng sau mỗi trận đánh, lúc không có máy bay địch, đứng cách xa hơn chục cây số vẫn nhìn thấy. 

Mảnh đất kiên cường ấy đã ghi nhiều kỳ tích trong chiến đấu và xây dựng là biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong thời đại Hồ Chí Minh.

Có nhà thơ đã nói:

… Đất này là đất Hàm Rồng
Đi qua bom đạn vẫn hồng sắc xuân …

Huy Cận, nhà thơ lớn, đã nói về mảnh đất địa linh nhân kiệt này:

… Cánh chim Lạc Việt bay từ thuở ấy,
Nâng ta lên cánh én ngày nay.
Đánh quỷ Mỹ với bốn ngàn năm dựng nước
Đồng, Đông Sơn là xương cốt núi sông này.

Với những trang sử oai hùng đang được trân trọng gìn giữ; với một vùng núi sông kỳ vĩ, khu di tích lịch sử văn hóa Hàm Rồng là vùng thắng tích lung linh trường tồn cùng với chiều dài lịch sử dân tộc.

Trấn Nam

Trung Túc Vương Lê Lai - Công thần khai quốc

Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh giành lại giang sơn, xây dựng nên nước Đại Việt tự do và phát triển trải qua 26 triều đại vua vĩ đại trong vòng 354 năm. Để có được trang sử vẻ vang đó, những nhân tài xuất chúng đã phải trải qua chiến đấu và hi sinh gian khổ và giai đoạn đầu là thời kỳ “Nhen lửa”.


Vào ngày 12 năm Ất Mùi (1415), bốn người: Lê Lợi, Lê Lai, Đinh Liệt và Nguyễn Thận, ngồi dưới gốc cây đa cổ thụ Phật Hoàng, bàn đường lối bình Ngô cứu quốc, lên phương án vận động tráng niên hào kiệt, hiền tài về Lam Sơn tụ nghĩa và tôn Lê Lợi lên làm Lam Sơn Động chủ. Cuộc khởi nghĩa Lam sơn bắt đầu từ đây. Cùng với sự lãnh đạo khéo léo, đường lối quân sự lỗi lạc của Lê Lợi đã đưa cuộc kháng chiến kéo dài hơn 10 năm mới giành được thắng lợi hoàn toàn. 

Thắng lợi đó đã sinh ra 277 vị công thần khai quốc dưới chế độ vua tôi, xây dựng nên nước Đại Việt giữ được nền độc lập hơn ba thế kỉ, ghi vào trang sử vẻ vang hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Sau những năm kháng chiến gian khổ, Lê Lợi lên làm vua được 6 năm. Tháng 8 nhuận năm Quý Sửu (1433) vua Lê Thái Tổ về Lam Kinh và từ trần vào ngày 22 tại chính tẩm. Trước lúc nhà vua quy tiên chầu phật còn dặn lại các hoàng tử và hoàng tộc phải giỗ Công thần đệ nhất Lê Lai trước ngày giỗ của mình một ngày (Đại Việt sử kí toàn thư). Từ đó nhân dân ta có câu “21 Lê Lai – 22 Lê Lợi”. Ý nghĩa lời dặn trên là thế nào, thân thế và sự nghiệp Lê Lai ra sao? 

Tương truyền rằng gia đình Lê Lai là quý tộc thuộc người dân tộc ở vùng miền Tây Thanh Hóa. Cụ thân sinh ra Lê Lai là Lê Kiều, mẹ là Lê Thị Kiệu và sinh được hai người con trai. Cả là Lê Viết Giản, thứ là Lê Lai.Lê Lai sinh năm 1355 tại làng Dựng Tú, sách Đức Giang, huyện Lương Giang, phủ Thanh Hóa. Địa danh đó thời nhà Nguyễn là làng Tép, thôn Dựng Tú, Tổng Cốc Xá, Châu Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa. Ngày nay là làng Thành Sơn, xã Kiên Thọ, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa. Tầm vóc thân thể Lê Lai cao, to, da ngăm đen, tính tình cương trực, chí khí cao cả lẫm liệt, dung mạo khác thường. Là con nhà quý tộc nên được học hành đến nơi đến chốn, do đó khi trưởng thành cũng kế được nghiệp cha là Phụ đạo sách Đức Giang, huyện Lương Giang. Vợ Lê Lai là bà Lê Thị Đạo, sinh được 3 người con trai theo thứ tự: Lê Lư (Lê Lô), Lê Lộ, Lê Lâm. Cả ba anh em đều là tướng giỏi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. 

Lê Lai và Lê Lợi lệch nhau về tuổi đời nhưng cùng chí hướng và ngang về vị trí, quyền chức ở hai vùng Đức Giang và Khả Lâm nên rất thân nhau. Hai ông thường đến khu rừng bìa làng Tép gọi là Gò Sánh để đàm đạo thế thái nhân tình bình quốc sự (nay là khu đền thờ Trung Túc Vương Lê Lai). Do vậy, lòng yêu nước căm thù giặc được nung nấu trong lòng các ông đã lên đến đỉnh điểm. Lê Lợi có người bạn tâm đầu ý hợp bên cạnh nên đã tạo cho ông ý chí quyết tâm cao hơn, nên ông đã đi khắp vùng để thăm dò ý nguyện của các hào kiệt tráng sĩ và thu hút nhân tâm. Sau khi Lê Lợi đã nắm bắt được thực tế thì ông bàn với Lê Lai: “Ông phải là người đầu gia nhập đội quân Lam sơn để thu hút các hào kiệt bốn phương về Lam Sơn tụ nghĩa”. Tháng 2 năm Ất Mùi (1415) đã có 3 người gia nhập nghĩa quân gồm: + Lê Lai giờ Thìn ngày 6/2 Ất Mùi (1415) + Đinh Liệt giờ Dậu ngày 8/2 Ất Mùi (1415) + Nguyễn Thận giờ Thìn ngày 9/2 Ất Mùi (1415) Đến ngày 12/3 năm Ất Mùi, bốn người tôn Lê Lợi lên làm Lam Sơn Động Chủ. Từ đó cuộc khởi nghĩa đi vào chiều rộng lẫn chiều sâu ở các làng quê của đất nước. Được toàn dân ủng hộ nên đã tuyển mộ được nhiều nghĩa sĩ yêu nước về Lam Sơn tụ nghĩa. Vì vậy, Lê Lợi đã tổ chức củng cố lại bộ máy lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa cho phù hợp với thời thế lúc này. Đến 20 Tháng 5 năm Ất Mùi (1415) ông đã thành lập ra hội đồng mưu lược gồm có 9 người: Lê Lợi, Lê Lai... Lê Văn Linh và bàn lập Hội thề Lũng Nhai, nhằm mục đích gây lòng tin tưởng, ý chí chiến đấu cho tướng sĩ nghĩa quân, đồng thời cử Lê Lai và Đinh Liệt đi tìm nơi tổ chức hội thề. Vì thế trong nhật kí của Đinh Liệt viết ngày 12/14/9 năm Ất Mùi (1915) như sau: Ta và Lê Lai đạp Linh Sơn Năm ngày ngang dọc chẳng hơi thôn (không làng bản nào) Hiểm trở sơn cùng và thủy tận Lâm nguy chỉ tàm tạm dung thân. Đúng giờ Thìn ngày 10/2 Bính Thân (1916), Tại Mường Giao Lão núi Linh Sơn, 18 tướng đã thề cùng nhau như anh em một nhà và đứng sau Động chủ Lê Lợi là Lê Lai. 

Sau Hội thề Lũng Nhai, đội quân Lam Sơn đã khởi sắc, có nhiều trận thắng lớn, thu phục được lòng dân, huy động được nhân tài và vật lực cho cuộc khởi nghĩa. Trong thời gian đó Tướng Lê Lai chỉ huy đánh một trận thắng lớn nhất trong đời binh nghiệp của ông vào ngày mồng 2 tết. Về sau lập đền thờ Lê Lai nhân dân thôn Dựng Tú lấy ngày 8 tháng giêng để mừng công của Ngài và là ngày mở hội khai hoa cho làng Tép, nơi chôn nhau cắt rốn của Ông.Từ những thắng lợi giòn giã của quân và dân với đường lối tổ chức, lãnh đạo khéo léo của ban chỉ huy cuộc khởi nghĩa, đã tạo ra sức mạnh tổng hợp làm cho thế cuộc thay đổi rất lớn. Vì vậy, ban lãnh đạo cuộc khởi nghĩa lại phải họp một lần nữa vào ngày 10 tháng chạp năm Đinh Dậu (1917), ban lãnh đạo cuộc khởi nghĩa họp bàn; Hội đồng mưu lược đổi thành Hội đồng mưu lược tối cao, số người tham gia từ 9 người lên đến 13 người: Lê Lợi, Lê Lai, Lê Văn Linh, ... Bùi Quốc Hưng và Lê Lợi lên ngôi Vua. Giờ Thìn ngày 2 tháng giêng năm Mậu Tuất nhằm ngày 7 tháng 2 năm 1418, Lê Lợi xưng Vương lấy niên hiệu là Bình Định Vương; Bộ máy vương triều có hai hàng quan tướng: Bên hàng văn có 18 người, đứng đầu là Nguyễn Thận; bên hàng tướng võ có 51 người trong đó người đứng đầu là Lê Lai. Vương triều hoạt động dưới sự chỉ đạo của Hội đồng Mưu lược tối cao đứng đầu là Bình Định Vương. Cục diện chiến trường lúc này thay đổi rất lớn ngày càng có lợi cho nghĩa quân ta. Do đó, giặc Minh cùng vương triều ra sức đàn áp một cách khốc liệt. Do thế và lực không cân sức, toàn bộ nghĩa quân phải rút lên núi Linh Sơn để cố thủ. Cuộc chiến đấu không cân sức này tưởng chừng như cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chỉ đi vào Lịch sử. Song, do sự sáng suốt của Hội đồng mưu lược tối cao, hiệu lực của Hội thề Lũng Nhai, cuộc khởi nghĩa đã bảo toàn được lực lượng cho đến ngày toàn thắng ... Bấy giờ quân Lam Sơn ít lính, thiếu lương, thường bị quân Minh đánh bại. 

Theo sách Đại Việt thông sử, cuối tháng 4 năm 1419, Lê Lợi bị thua trận ở Mường Một, chạy thoát về Trịnh Cao, quân Minh đuổi theo vây chặt các lối hiểm yếu. Lần này, quân địch bủa vây trùng điệp, vòng vây ngày càng khép chặt lại, vùng Linh Sơn lúc này còn rất hoang sơ, không có dân ở, chính nghĩa có ý chí quật cường, không dân nương tựa hơi sương. Đêm ngày 28/4 năm Kỷ Hợi (1419), Hội đồng mưu lược họp bàn tìm cách cứu vãn, tình thế lúc này như ngàn cân treo sợi tóc. Lê Sát, Đinh Bồ, Lê Thạch, Lê Thục tỏ thái độ đánh đến người cuối cùng ít nhất cũng giết được năm sáu ngàn tên địch. Đinh liệt đứng dậy nói “Tinh thần hy sinh của tướng sỹ nghĩa quân ta còn quý hơn vàng ngọc, song sự hy sinh để rồi cuộc khởi nghĩa cũng đi theo luôn, chỉ để lại hồi âm cho mai sau thì không bằng phải bàn bạc suy nghĩ tìm mọi cách cứu lấy nghĩa quân sống và tiếp tục hoàn thành đại sự ...”. Bình Định Vương và các tướng sĩ tỏ thái độ tán thành với cách đặt vấn đề của tướng Đinh Liệt. Sau đó Lê Lợi hỏi: “Có ai dám bắt chước Kỷ Tín đời Hán không?”. Các tướng đều ngồi yên không ai dám thưa. Lê Lai đứng dậy nói: “Tôi nguyện làm kỉ tín của Hán cao tổ... Tôi xin đi ”. Bình Định Vương và Tướng sĩ cảm động rơi lệ không ngớt. Lê Lai nói: “ Bây giờ đang nguy khốn, nếu ngồi giữ mảnh đất nguy hiểm, vua tôi cùng bị diệt, sợ sẽ vô ích. Nếu theo kế này, may ra có thể thoát được. Kẻ trung thần chết vì nước nào có tiếc gì?”. Lê Lợi ôm chặt lấy Lê Lai nói: “Lịch sử ghi danh vĩnh thùy bất hủ” và vái trời khấn rằng: “ Lê Lai có công đổi áo, sau này tôi và con cháu tôi và con cháu các tướng tá công thần, nếu không nhớ đến công lao ấy, thì xin cho cung điện biến thành rừng núi, ấn triện biến thành cục đồng, gươm thần biến thành dao cùn”. Đúng giờ Thìn ngày 29 tháng 4 Năm Kỷ Hợi (1419), Tại địa danh Trịnh Cao trên núi Linh Sơn, Lê Lai nhận áo hoàng bào của Bình Định Vương cưỡi voi cùng 500 quân thẳng hướng Đông Bắc tiến đánh trại quân Minh. Quân Minh đổ ra đánh. Lê Lai thúc voi xông thẳng vào giữa trận hô to: “ Ta là chúa Lam Sơn đây!” Quân Minh ngỡ là Lê Lợi nên xúm lại đánh kịch liệt. Do không cân sức, Lê Lai bị quân Minh bắt và đem về Tây Đô hành hình. Lê Lợi nhân lúc việc vây hãm của địch lơi lỏng, cùng các tướng chạy ra đường khác, trốn thoát. Cảm động lòng trung nghĩa của ông, Lê Lợi sai người ngầm tìm được thi hài ông, mang về an táng ở Lam Sơn. Tướng Đinh Liệt thương tiếc Lê Lai đã khóc: Dịch

Kỷ tín tằng tái hiện Lê Lai nguyên thế thiên Tử trung hoàn sinh địa Đại Nam sử vĩnh truyền Niệm hà thời sinh hỏa Tứ nhân đệ nhất kiênTừ Lũng Nhai minh thệ Niêm nhị khóa đào viên Xưng Vương Tết Nguyên Đán Tướng bài trạm thủ tiên Hà nhật thành đại nghiệp Ẩm hà tất tư nguyên Kỷ tín lại xuất hiện Lê Lai nguyện thay trờiTrong chết tìm đất sốngSử Nam mãi sáng ngời Nhớ ngày nào nhen lửa Kiên định nhất bốn người Từ Lũng Nhai minh thệ Vườn đào hai hai cây (1)Xưng Vương tết Nguyên Đán Tướng đứng cạnh lễ đài Ngày nào thành đại nghiệp Uống nước nhớ nguồn khơi Khi cuộc kháng chiến hoàn thoàn thắng lợi, Lê Lợi đã đưa được hài cốt Lê Lai về Lam Kinh mai táng tại Hậu Lăng. Từ đó trong bài chúc văn tế ở Lam Sơn có đoạn:....Lam Sơn tạo ứng nghĩa tòng sự Đồng hưu vĩnh chi ư sơn hà Hiệp mưu tướng sĩ hữu chi công Điểm phong báo phong, điểm chi vi mạc tướng Hoàng gia cung đồ chu ứng gia phong Ngẫu tự mỹ tự khả gia phong Đại ý: Cùng phất cờ khởi nghĩa ở đất Lam Sơn, sống cũng ở Lam Sơn, chết cũng ở Lam Sơn. Thoát được vòng vây, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã được giữ lại và đã giành lại được giang sơn đất nước vào ngày 22 tháng 11 năm Đinh Mùi (1427). Giờ Thìn ngày 15 tháng 3 năm Mậu Thân (1428), Lê Lợi đăng quang, chính thức lấy niên hiệu là THUẬN THIÊN HOÀNG ĐẾ. Thuận Thiên Hoàng Đế thứ nhất (1428), Nhà vua truy phong tướng Lê Lai “Đệ nhất khai quốc công thần suy đồng hiệp đức mưu bảo chính Lũng Nhai công thần là Thiếu úy”.Thuận Thiên Hoàng Đế thứ hai – tháng 12 Kỷ Dậu (1429), Nhà vua sai Nguyễn Trãi viết 2 bản lời thề ước và nhớ ơn Lê Lai đặt vào hòm vàng và phong Thái úy, trân trọng đặt trong cung điện của mình... đồng thời chiếu chỉ cho thôn Dựng Tú lập đền thờ Ngài tại Làng Tép và cắt cho 10 mẫu điền để phục vụ tế lễ tứ thời bát tuyết. 


Ở sau đền còn giữ được nhiều cây cổ thụ có độ tuổi hàng trăm năm phong cảnh uy nghiêm, khí hậu ôn hòa quanh năm. Trước đền là hai cây đại, tương truyền có từ lúc Lê Lợi cho dựng đền. Qua cửa tam quan sẽ xuống hồ bán nguyệt, hồ có đường kính 60 mét. Bờ hồ có tường hoa lát gạch để bảo vệ hồ được lâu bền. Khi ta đi xuống mép nước qua các bậc, sẽ phát ra âm thanh vọng lại, thật là kỳ ảo. Các cụ quan niệm đó là nơi tụ Sơn, tụ Thủy. 

Cùng với Lê Lợi là rất nhiều nhân tài kiệt xuất trong đó có Lê Lai là tấm gương sáng mãi muôn đời về sau. Vì vậy, đền thờ Ngài từ lúc dựng lên, không lúc nào mất mùi hương thơm bay vào không gian lan tỏa bám vào các cây đại thụ lớn dần theo thời gian và lịch sử. Chùa Tép – Đền thờ TRUNG TÚC VƯƠNG LÊ LAI, hai tên nhưng là một, nơi tưởng niệm là nơi an nghỉ của anh hùng Lê Lai đã liều mình cứu chúa để tô vẽ thêm cho lịch sử Việt Nam ngày càng sáng chói. Vì thế, trong năm có hai ngày hội lớn là ngày 8 tháng giêng và ngày 21 tháng 8 Âm lịch, ngày đó gió thảm mưa sầu như thương tiếc người anh hùng vĩ đại vì nước quên mình cứu lấy giang sơn xã tắc thoát khỏi khổ đau loạn lạc. Đồng thời khách thập phương cũng kéo nhau về dự hội để tưởng nhớ công đức uy danh của Ngài. Ngoài ra, nhân dân làng Tép thông Dựng Tú còn phải hành lễ các ngày kỵ 29 tháng 4 Âm lịch và các tiết lễ: Kỳ yên; kỳ phúc; kỳ hòa; trung nguyên; cơm mới.... Thật tự hào làm sao các thế hệ hôm qua, hôm nay và mai sau !

T.S

Bánh nhè đặc sản xứ Thanh


Bánh Nhè vốn là món ăn vặt dân dã của trẻ con vùng Thanh Hóa. Món bánh thơm lừng được làm từ những nguyên liệu thật dân dã bình dị, như kết tinh cái hồn đồng ruộng, sông nước của miền đất xứ Thanh với nhân dừa, đậu xanh và đường được gói trong lớp bột nếp dẻo mịn. Bánh nhè được nấu bằng đường mật mía và gừng nên rất thơm ngon. Bánh nhè là niềm thương nỗi nhớ của những người con xa quê, lại là những gì thân thuộc, một thói quen không thể thiếu của người dân và là nỗi lưu luyến đối với khách đặt chân tới xứ này.


Thanh Hóa có 18 học sinh đỗ thủ khoa đại học năm 2014

Theo thống kê của Sở GD-ĐT Thanh Hóa trong kỳ thi ĐH, CĐ năm nay, toàn tỉnh Thanh Hóa có 18 thủ khoa các trường đại học trong cả nước, tăng 4 thủ khoa so với năm 2013.

Trong số 100 thủ khoa có điểm cao nhất cả nước thì tỉnh Thanh Hóa có 5 em. Em Lê Bá Tùng (Trường THPT Quảng Xương 1) đỗ thủ khoa Trường ĐH Y Hà Nội với tổng điểm 29,5 là một trong 3 thủ khoa có số điểm cao nhất cả nước.

Em Lê Bá Tùng (học sinh Trường THPT Quảng Xương 1, huyện Quảng Xương, Thanh Hóa) đỗ thủ khoa ĐH Y Hà Nội với 29,5 điểm, là một trong 3 thủ khoa có điểm cao nhất cả nước.

Đặc biệt, Học viện Quân Y hệ Quân sự năm nay có 3 thủ khoa đều là người Thanh Hóa. Trong đó, em Nguyễn Văn Hinh (Trường THPT Yên Định 2) là thủ khoa khối A với tổng điểm 3 môn 29 điểm (Toán 9; Vật lý 9,75; Hóa 10 điểm).

Hai đồng thủ khoa khối B còn lại là em Trần Quốc Tuấn (Trường THPT Yên Định 1) và em Nguyễn Kim Anh (Trường THPT Hàm Rồng, TP Thanh Hóa) với số điểm 28,5.

Toàn tỉnh Thanh Hóa có 41 thí sinh có tổng điểm 3 môn đạt từ 27 điểm trở lên. Một số thủ khoa nổi bật như em: Lê Đình Khánh (học sinh Trường THPT Hàm Rồng) thủ khoa Học viện Kỹ thuật Quân sự; em Nguyễn Thanh Hằng (học sinh Trường THPT Ba Đình, huyện Nga Sơn, Thanh Hóa) thủ khoa ĐH Luật, Nguyễn Quốc Trí (Trường THPT Hoằng Hóa 4) thủ khoa Học viện Tài chính…

Thủ khoa HV Tài chính Nguyễn Quốc Trí (Trường THPT Hoằng Hóa 4, huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa) vừa chăm mẹ ốm vừa học vẫn đỗ thủ khoa với số điểm cao.

Một số trường ĐH danh tiếng như ĐH Thương mại, ĐH Xây dựng, Sân khấu - Điện ảnh, ĐH Chính trị… đều có thủ khoa là người xứ Thanh. Hầu hết, các thủ khoa trên của Thanh Hóa đều thuộc nhà nghèo ở các vùng nông thôn. Nhiều em gia đình có hoàn cảnh khó khăn, điểm chung ở các em là rất chăm ngoan và ham học.

Trung bình mỗi kỳ thi ĐH, CĐ tỉnh Thanh Hóa có khoảng hơn 22.000 học sinh thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng trong cả nước đạt tỷ lệ 48%.

Thái Bá <Dân Trí>

Đặc sản Chè Lam Phủ Quảng xứ Thanh

Chè Lam là một món ăn quen thuộc của nhiều vùng miền nước ta. Nhưng có lẽ chẳng nơi nào có món Chè Lam độc đáo như vùng Phủ Quảng xứ Thanh - Bởi lẽ Chè Lam Phủ Quảng thơm ngon vì cái vị giòn giòn độc đáo tan ra ngay trên đầu lưỡi.



Phủ Quảng là tên gọi xưa của huyện Vĩnh Lộc. Miếng Chè Lam Phủ Quảng tuy rắn nhưng lại giòn tan, chỉ cần vỗ nhẹ là vỡ ra thành từng mảnh nhỏ. Món dân dã này có trong danh sách 50 quà tặng đặc sản Việt Nam do Tổ chức Kỷ lục Việt Nam công bố này là lựa chọn không thể thiếu với những du khách ghé thăm di sản văn hóa thế giới Thành nhà Hồ.

Làm thức quà này cũng khá công phu và đòi hỏi khéo léo, có kinh nghiệm để có được tỷ lệ chuẩn giữa các nguyên liệu gạo nếp, đường, mạch nha, mật mía, gừng, lạc… Thứ nếp một trong những nguyên liệu chính làm chè phải chọn cho được thứ nếp nương của miền ngược hay thứ nếp cái hoa vàng vùng Vĩnh Lộc, Thọ Xuân, Yên Định, Hoằng Hóa. Phải xay giã vừa phải không trắng quá. Đem nếp xay nhuyễn bằng cối đá bắc, việc xay phải thật kiên trì, xay nhiều vòng quay mới được một vài giọt rơi xuống chậu. Khi xưa phải chọn người khỏe mạnh, đằm tính hay đôi bạn, một nam một nữ vừa xay vừa trò chuyện để quên đi thời gian. Bột xay được lắng đi phần nước trong, sau đó cho vào tấm vải thô đặt trên thúng tro rơm nếp cho đến lúc kỳ hết nước, bẻ thành từng miếng nhỏ như miếng cau rồi đem phơi nắng cho trắng giòn là được.

Ngày nắng làm bột rồi ủ trong túi bóng đựng trong chum sành khi nào làm chè mới đem ra. Gạo nếp làm phụ liệu chè lam phải đem rang chín có màu vàng thơm dịu, rang gạo cũng kỳ công như xay bột. Gạo được đem rang trong chảo gang to, phải luôn tay đảo đều và lửa than phải vừa đủ độ để gạo chín đều chứ không chín ép, nếu sơ xuất lửa to, gạo sẽ sượng không làm chè được, coi như tốn cả công cả của. Gạo rang xong đem trải ra nia cho nguội tự nhiên. Thứ phụ liệu khác làm chè lam cũng phải được chuẩn bị sẵn. Lạc rang đem giã đôi giã ba, gừng đem đồ rồi sắt lát thật nhỏ đều.

Khâu thắng mật đòi hỏi rất nhiều kinh nghiệm, thứ kinh nghiệm trải năm tháng thời gian của những người say nghề. Chọn thứ mật mía phải là mật mía Kim Tân của huyện Thạch Thành láng giềng, nơi được coi là đất mía của tỉnh Thanh. Mật phải ngọt, sánh, đặc, cho vào chảo thắng đến khi nào mật sôi kỹ, trở lửa vừa phải để mật sôi lăn tăn. Để có một nồi mật thật ngon, ngoài việc cho thêm một số gia vị như gừng xay nhỏ sau khi đã gọt thật sạch, thịt nạc xay thành sợi thì người thợ làm bánh phải đun thật khéo sao cho đảm bảo được vị thơm, không bị đắng khét và nồi mật thật vàng óng khi sôi. Muốn biết mật đã đủ độ chưa thì dùng chiếc đũa ăn cơm chấm đầu chiếc đũa vào chảo mật rồi thả giọt mật vào bát nước lạnh, hễ mật đông thành cục là được, đến khi ấy cho tất cả vào đảo nhanh tay thật đều, khâu này đòi hỏi sự tập trung, nhanh nhẹn, khéo léo. Chuẩn bị sẵn một chiếc bàn có mặt phẳng hoặc mâm đồng có rắc thứ bột phăng để làm áo và chống dính, khi trộn đều kỹ thì đổ ra và lăn đều vo thành từng cục to như trái bưởi rồi đem vào cối luyện. Luyện chè phải nhanh tay, công việc này đòi hỏi phải có sức khỏe. Cứ dùng hai tay nâng cục chè lên rồi luyện xuống lòng cối thật nhiều lần để tạo sự gắn kết và sự dẻo dai cho chè. Khi đã luyện xong thì đưa lên bàn lăn thành bánh tròn như bắp tay rồi để cho chè nguội tự nhiên.

Ngày nay để sản xuất nhiều, khâu luyện được giảm bớt, khi làm xong công đoạn cuối người ta chỉ việc cho vào khuôn, rồi dùng con lăn bằng vỏ chai lăn kín mặt khuôn và dùng dao hớt tạo mặt phẳng là được. Khuôn thường được làm bằng gỗ có chừng 40 ô, mỗi ô có cạnh vuông là 5 cm, độ dày 1,5 cm. Khi chè lam đã nguội hẳn các cụ xưa thường gói vào lá chuối khô cho vào chum hoặc vại sành để bảo quản, ngày nay có thể dùng túi bóng để gói như cách gói kẹo thông thường.


Thưởng thức chè lam cũng phải có cách. Khi xưa lúc nào ăn các cụ mới dùng dao sắc cắt chè lam thành từng khoanh. Chè lam thường ăn chậm rãi, uống với chè xanh hoặc chè tàu. Chè lam phủ Quảng có hương vị đặc biệt: Có vị dẻo thơm của gạo nếp, vị bùi của lạc, vị cay dịu của gừng, vị ngọt ngào thơm đậm đà do mật mía và các gia vị mang lại. Hình thức lát chè cũng rất ngon mắt, lát chè có màu nâu nhạt, có hoa trắng do lạc tạo nên trông rất hấp dẫn.

Những ngày mùa đông khi đi xa có được khoanh chè lam thì thú vị biết bao, người ta sẽ cảm thấy ấm nóng khoan khoái và thấy khỏe mạnh tráng cường hơn, con đường xa ngái cũng như ngắn lại, đôi chân thêm mạnh bước đường dài. Người đi rừng, đi làm xa thường mang theo chè lam thay cho thức ăn vừa gọn vừa tiện lợi. Ngày trước, chè lam đã theo chân Vệ quốc đoàn tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, theo chân đoàn Dân công tham gia chiến dịch Nam Lào...Ngày nay, chè lam theo từng chuyến du lịch theo chân khách tham quan mà đi ra năm châu bốn biển.

Mộc mạc và dân dã đến vậy nên Chè Lam Phủ Quảng luôn có vị ngọt ngào của hạt nếp quê, của giọt mật thơm chắt chiu từ lòng đất, hòa lẫn với hương gừng cay nồng nàn sâu lắng, có hình hài miếng bánh nhỏ xinh, cứ giòn tan khúc khích như tiếng cười thơ trẻ.

Trấn Nam

Xứ Thanh - nét riêng về văn hóa

Thanh Hóa mang những sắc thái văn hóa độc đáo, đó là tính vừa hoàn chỉnh, biệt lập tương đối lại vừa trung gian, chuyển tiếp của Xứ Thanh trong tổng thể văn hóa xã hội Việt Nam. 


Trước thời Hán, Thanh Hoá thuộc quận Cửu Chân, thời Hán quận Cửu Chân thuộc bộ Giao Chỉ. Thời nhà Lương, đổi Cửu Chân thành ái Châu. Bắt đầu thời phong kiến tự chủ, Thanh Hoá vẫn thuộc Châu ái. Đến thời Lý, năm Thuận Thiên thứ nhất, đổi thành phủ Thanh Hoá, cái tên Thanh Hoá bắt đầu có từ đấy. Sau này, trải qua các triều đại, có lúc Thanh Hoá được gọi là phủ, trấn, lộ, trại, thừa tuyên ..., thậm chí, cái tên Thanh Hóa có từ thời Lý cũng có lúc đổi thành Thanh Đô, Tây Đô, Thanh Hoa, thì cái thực thể Xứ Thanh vẫn không có gì thay đổi. Năm Thiệu Trị thứ nhất, chính thức đổi tên thành tỉnh Thanh Hoá và tồn tại tới ngày nay (Quốc sử quán triều Nguyễn, 1970).

Do vị trí nằm giữa (trung gian) Bắc Bộ và bắc Trung Bộ, nên có lúc Xứ Thanh thuộc về bộ Giao Chỉ, có lúc thuộc quận Cửu Chân, cùng với Nghệ An và Hà Tĩnh. Như vậy, ngay từ thời xa xưa, "tiền nhân" cũng đã có sự "lưỡng lự" về sự cắt đặt vị trí hành chính của Thanh Hoá, mà dân gian hiện nay vẫn coi Thanh Hoá là "Khu Bốn đẩy ra, Khu Ba đẩy vào". Hoặc giả, khi dự báo thời tiết của Đài phát thanh hay truyền hình Việt Nam, có lúc người ta nhập Thanh Hoá vào phía đông Bắc Bộ, có lúc lại gộp chung với bắc Trung Bộ. Do vậy, tính chất trung gian của Xứ Thanh là có thật, là một thực thể địa - văn hoá, để lại dấu ấn nhiều mặt trong đời sống vật chất và tinh thần của con người Xứ Thanh.

Cây cầu Hàm Rồng xưa và nay - Biểu tượng của ý chí và tinh thần quật cường của quân và dân Thanh Hóa

 Thanh Hoá - Xứ Thanh không phải là tứ trần nội kinh (Xứ Bắc, Xứ Đông, Xứ Đoài, Xứ Nam vây quanh Thăng Long xưa, tương ứng với các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ tiếp giáp với Hà Nội ngày nay), mà là ngoại trấn, là trại, là đất phên dậu, là vùng ngoại vi của trung tâm văn hoá - chính trị Thăng Long hay Huế- Phú Xuân. Vị trí địa - chính trị, địa - văn hoá này cũng tạo cho Xứ Thanh - Thanh Hoá những sắc thái văn hoá mang tính đặc thù.

Nếu đồng bằng Bắc Bộ là châu thổ của hệ thống sông Hồng, thì đồng bằng Thanh Hoá chính là châu thổ của hệ thống sông Mã- sông Chu, do vậy Lê Bá Thảo cho rằng, quang cảnh đồng bằng Thanh Hoá như là sự lặp lại một phần của đồng bằng châu thổ sông Hồng (Lê Bá Thảo, 1998). Đồng bằng Thanh Hoá là đồng bằng rộng nhất ở Trung Bộ, diện tích bằng 1/2 diện tích của các đồng bằng Trung Bộ cộng lại, tức khoảng 3000 km2, đất đai cũng mầu mỡ hơn. Tuy nhiên, Thanh Hoá với địa hình núi non chiếm 2/3 diện tích cả tỉnh, một số mạch núi kế tiếp mạch núi vùng Tây Bắc chạy sát ra biển, nên ở Thanh Hoá, cảnh quan đồng bằng, biển và rừng núi nối kết và cận kề nhau hơn, làm tăng tính chất rừng và biển của đồng bằng, chứ không "xa rừng, nhạt biển" như đồng bằng châu thổ Bắc Bộ.

Đồng bằng Thanh Hoá là do hệ thống sông Mã và sông Chu bồi phủ, tuy nhiên, đồng bằng phía Nga Sơn lại là sản phẩm thành tạo, bồi phủ của sông Hồng, do vậy, đồng bằng Thanh hoá gắn kết một phần với đồng bằng sông Hồng. Hơn thế nữa, về mặt địa lý tự nhiên, Thanh Hoá được coi là thuộc khu Hoà Bình- Thanh Hoá, phân khác với địa lý vùng Nghệ Tĩnh. Đây lại là một lý do nữa chứng tỏ mối quan hệ gắn kết về tự nhiên giữa Thanh Hoá và Bắc Bộ (Lê Bá Thảo,1989).

Cũng giống như sông Hồng ở Bắc Bộ, Sông Mã (có chi nhánh là sông Chu) là cái trục chính, là linh hồn của Thanh Hoá. Bắt nguồn từ Tây Bắc, chảy qua Sầm Nưa (Thượng Lào) rồi vào thượng du Thanh Hoá, nơi rừng núi trùng điệp, có nhiều đỉnh núi cao thuộc loại trung bình, như Bù Rinh (1291 m), Bù Chó (1563 m)...rồi theo hướng đông chảy ra biển vịnh Bắc Bộ. Khoảng trung lưu, sông Mã gặp nhánh sông Chu trước khi đổ ra biển, sông Mã không chỉ bồi đắp nên đồng bằng rộng lớn và tươi tốt, mà mức độ rộng lớn và phì nhiêu của nó chỉ đứng sau châu thổ sông Hồng và sông Cửu Long, mà còn là đường thông thương huyết mạch giưa miền ven biên, đồng bằng với thượng lưu ở phía tây, là con đường không chỉ chuyên chở lâm thổ sản từ miền núi về miền xuôi, mà còn chuyên chở hàng thủ công, hải sản từ miền biển, đồng bằng lên miền núi. Cách đây chưa lâu, các đoàn thuyền đinh ngược xuôi tấp nập, nối liền các bến chợ dọc bờ sông, nay được bổ sung thêm hệ thống đường bộ. Sông Mã không chỉ là huyết mạch về kinh tế, mà còn là con "sông văn hoá", tạo nên hai bên bờ tả hữu những hiện tượng văn hoá vật chất và tinh thần phong phú và đa dạng, là con đường giao lưu văn hoá giữa các vùng và các tộc người.

Nơi thượng nguồn dòng sông Mã - đoạn chảy trên đất Thanh Hóa

Biển Thanh Hoá vẫn thuộc Vịnh Bắc Bộ, tuy nhiên có vẻ "mặn mòi", "biển" hơn so với biển ở các tỉnh phía bắc, như Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình, Hải Phòng, Quảng Ninh ...Cũng bắt đầu từ Thanh Hoá, các dãy núi có xu thế tiến sát ra biển, kề liền với đồng bằng, thậm chí ăn ra biển xa, tạo thành các dãy đảo, các hòn, như Hòn Nẹ, Hòn Nôm, Hòn Ngư, Hòn Mê, tạo nên một hệ sinh thái đa dạng : Núi - đồng bằng - biển, mà ở đó sinh hệ khá đa dạng, thường là nơi con người tiền sử lựa chọn sinh sống. Chất biển của Thanh Hoá không chỉ thể hiện ở đường bờ biển dài hơn 200 km, ở dải "cồn cát duyên hải", dấu tích của giới hạn của các vụng biển cũ mà nay châu thổ đã lấp đầy. ở Thanh Hoá cũng như các tỉnh Trung Bộ có nhiều cửa sông chảy ra biển như cửa Đáy, Lạch Trường, Cửa Hới, nơi có nhiều tôm, cá và phát triển nghề biển. Sầm Sơn, nơi phát triển kiểu bè mảng rất độc đáo nơi bãi ngang, giúp con người có thể đi ra khơi xa để đánh bắt cá. Cần phải nói thêm rằng, bè mảng Sầm Sơn, nơi gốc tích của kỹ thuật bè mảng nước ta , chính là sự kết hợp chặt chẽ giữa biển và rừng núi, một khi nguyên liệu chính để làm loại bè mảng vượt biển độc đáo này lại lấy từ tre luồng trên đất Lam Sơn, Quan Hoá, Ngọc Lạc, theo phương thức "măng, tre đưa xuống, cá chuồn đưa lên".

Đền thờ thần Độc Cước - Sầm Sơn - Thanh Hóa

Thanh Hoá là một tỉnh đông dân, khoảng 3,6 triệu người, một tỉnh có dân số thuộc loại đông nhất ở nước ta. ở đồng bằng, tuy đất đai không phì nhiêu như Đồng bằng Bắc Bộ, nhưng mật độ dân cư khá cao, thí dụ ở Đông Sơn mật độ khoảng 1000-3000 người/km2, nơi thấp nhất cũng khoảng 500 người/km2, còn ở thành phố Thanh Hoá và Diễn Châu đạt tới 3000 người/km2. Điều đó chứng tỏ tần xuất sử dụng đất của con người ở đây đạt mức độ cao.

Thanh Hoá là một tỉnh đa tộc người, ngoài người Kinh (Việt) sinh sống ở đồng bằng, còn có các tộc người thiểu số khác, như Mường, Thái, Khơ Mú, Thổ, Mông, Dao, thuộc các nhóm ngôn ngữ : Việt-Mường, Môn-Khơ me, Thái-Tày, Mông-Dao, tụ cư chủ yếu ở miền núi, trên địa bàn các huyện : Mường Lát, Quan Sơn, Quan Hoá, Bá Thước, Thạch Thành, Cẩm Thuỷ, Ngọc Lặc, Lang Chánh, Thường Xuân, Như Xuân, Như Thành. Địa bàn này chiếm 2/3 diện tích cả tỉnh, dân số các dân tộc thiểu số kể trên khoảng 1 triệu người, chiếm khoảng 1/3 cả tỉnh ( Địa chí Thanh Hoá, T.2). Các tộc người ngày nay sinh sống xen cài với nhau, nhưng lại thuộc các vùng sinh thái tự nhiên khác nhau : Thái, Mường ở thung lũng, Thổ, Khơ mú ở rẻo giữa, còn Mông ở rẻo cao. Cũng cần nói thêm rằng, trong sự phân vùng văn hoá của chúng tôi, thì vùng núi các dân tộc Thanh Hoá và Nghệ An lại gần gũi hơn với vùng văn hoá Tây Bắc và miền núi Thanh Nghệ.

Núi Đọ - Sông Chu là 1 trong hai cập biểu tượng đẹp cho lịch sử và văn hóa xứ Thanh

Thanh Hoá cũng là một vùng đất lịch sử lâu đời. Có lẽ hiếm có vùng đất nào như Thanh Hoá lại có đầy đủ những mốc nổi tiếng đánh dấu các giai đoạn lớn của lịch sử, từ tối cổ đến tận ngày nay. Do vậy, thiên nhiên và văn hoá Xứ Thanh đều thấm đượm sắc màu lịch sử.

Di chỉ Núi Đọ phát hiện năm 1960 ở huyện Thiệu Hoá, là cái mốc tối cổ, nơi tìm được dấu tích con người thuộc thời đại đá cũ sơ kỳ, cách ngày nay khoảng hai chục vạn năm*. Kế tiếp, di chỉ hang Con Moong phát hiện ở Thạch Thành, chứa đựng các dấu vết khảo cổ học từ văn hoá Sơn Vi (hậu kỳ đá cũ) ở lớp dưới, trên đó là các lớp văn hoá Hoà Bình, Bắc Sơn. Như vậy, người Con Moong đã sinh sống ở đây nối tiếp mấy chục ngàn năm, suốt từ hậu kỳ đá cũ qua sơ kỳ và trung kỳ đá mới. 

Văn hoá khảo cổ Đa Bút ở lưu vực sông Mã là một phát hiện quan trọng của giới khảo cổ học, vì Đa Bút là sự phát triển nối tiếp của văn hoá Hòa Bình - Bắc Sơn trong quá trình chinh phục đồng bằng ven biển Thanh Hoá thời đá mới, cách ngày nay khoảng trên dưới 6000 năm. Đây cũng là thời kỳ "cách mạng đá mới" phát sinh nông nghiệp, khai phá đồng bằng, làm quen với biển cả, phát triển đồ gốm cổ, thời kỳ từ văn hoá Hoà Bình thống nhất hình thành các văn hoá địa phương khá đa dạng, một dấu hiệu mang tính tộc thuộc (Trần Quốc Vượng, Bùi Vinh, 2003).

Văn hóa Hoa Lộc là văn hoá khảo cổ thuộc sơ kỳ thời đại kim khí , phát hiện ở huyện Hậu Lộc, phân bố chủ yếu ở vùng ven biển, có niên đại khoảng 4000 năm. Về mặt di vật đồ đá, đồ gốm của văn hoá Hoa Lộc có mối quan hệ với các nền văn hoá ven biển khác ở nước ta, như văn hoá Hạ Long ở phía bắc và Bàu Tró ở phía nam. Người ta giả thuyết rằng có thể cư dân Hoa Lộc và các văn hoá ven biển khác cùng thời thuộc về tổ tiên của cư dân nói ngôn ngữ Nam Đảo (Austronesiens).

Đông Sơn là văn hoá thời đại kim khí (đồ đồng, sơ kỳ sắt) , phát hiện lần đầu tiên năm 1924 tại làng Đông Sơn, huyện Đông Sơn, Thanh Hoá, trở thành tên gọi Văn hoá Đông Sơn, một nền văn hoá khảo cổ có diện phân bố rộng, trong đó trung tâm là châu thổ sông Hồng và sông Mã. Các di chỉ khảo cổ Đông Sơn tìm thấy nhiều nhất trên đát Thanh Hoá, hiện vật tiêu biểu của văn hoá Đông Sơn là trống đồng cũng tìm thấy nhiều ở đây với các kiểu dạng khác nhau. Đây là giai đoạn phát triển rực rỡ của văn hoá, văn minh Việt Nam trên cơ sở phát triển nông nghiệp ruộng nước, kỹ thuật đúc đồng, rèn sắt, từ đó hình thành nhà nước cổ đại, hình thành tộc người Việt Cổ, hình thành và định hình cơ tầng của văn hoá Việt Nam cổ truyền.

Trống Đồng - Biểu tượng của văn hóa Đông Sơn

Như vậy, hơn bất cứ một địa phương nào khác, Thanh Hoá là nơi đã phát hiện được các di chỉ khảo cổ học thuộc hầu hết các thời đại khảo cổ học lớn của nước ta thời tiền sử và sơ sử. Đây không phải là ngẫu nhiên mà là một tất yếu, bởi vì Thanh Hoá về mặt tự nhiên cũng như văn hoá, nó là một “Việt Nam thu nhỏ”. Thanh Hoá cùng với đồng bằng châu thổ Bắc Bộ là cái nôi hình thành dân tộc Việt nam, quốc gia Việt Nam và nền văn hoá Việt Nam. Chẳng thế mà trên mảnh đất Xứ Thanh, đây đó chúng ta có thể bắt gặp những "mô thức" huyền thoại về Tản Viên, Thánh Gióng, Mỵ Châu - Trọng Thủy của "đất tổ" đồng bằng Bắc Bộ được "địa phương hóa" ở đây. Có chăng chỉ trong thời Bắc Thuộc, nhất là thời phong kiến tự chủ với trung tâm là kinh đô Thăng Long, Thanh Hoá mới ít nhiều trở thành nơi biên viễn, ngoại trấn.

Bước vào thời kỳ lịch sử của dân tộc, trên mảnh đất Xứ Thanh cũng để lại nhiều dấu ấn quan trọng. Sau khởi nghĩa Hai Bà Trưng ở Mê Linh với sự hưởng ứng của "65 huyện thành", khởi nghĩa của Triệu Thị Trinh (Bà Triệu) ở Thanh Hoá nổ ra năm 248 được nhân dân cả quận Giao Chỉ và Cửu Chân hưởng ứng, giết chết viên thứ sử Giao Châu, khiến sử Ngô cũng phải ghi chép : Năm 248 "toàn thể châu Giao đều chấn động" (Lịch sử Việt Nam, tập I, 1971). Cuộc khởi nghĩa cuối cùng thất bại trước sự đàn áp dã man của kẻ thù. Nay lăng mộ và đền thờ của Bà trên núi Tùng ( xã Phú Điền, Hậu Lộc, Thanh Hoá), cũng chính là nơi Bà đã anh dũng hy sinh. Tuy nhiên hình ảnh và sự tích về Bà vẫn không phai nhạt trong tâm tưởng của nhân dân:

"Ru con con ngủ cho lành
Để mẹ gánh nước rửa bành con voi
Muốn coi lên núi mà coi
Có Bà Triệu tướng cưỡi voi bành vàng"

Như vây là, trong các thế kỷ đầu của thời Bắc thuộc, hai cuộc khởi nghĩa lớn đều do thủ lĩnh là hai phụ nữ khởi xướng : Bà Trưng và Bà Triệu, một ở Bắc Bộ, một ở Thanh Hoá. Cho tới nay hàng năm nhân dân đều mở hội tưởng niệm hai Bà.

Đền Bà Triệu tại Hậu Lộc - Thanh Hóa

Lăng Mộ bà Triệu trên núi Tùng - Hậu Lộc

Thanh Hoá từ lâu được mệnh danh là đất của các bậc đế vương sáng nghiệp, ít nhất cũng đã từng có 3 dòng họ đế vương như vậy gốc tích từ Xứ Thanh : Vương triều Hồ, Vương triều Lê và Vương triều Nguyễn. Đấy là chưa kể Lê Hoàn có phải là người Xứ Thanh (làng Sộp, xã Trung Lập, huyện Thọ Xuân) hay không thì hãy còn tranh luận (Trần Quốc Vượng, 1998). Hồ Quý Ly có gốc tích từ Nghệ An, tuy nhiên đến đời thứ 4 tính từ Hồ Quý Ly trở lên, tổ tiên đã chuyển về Thanh Hoá. Ông vốn là một quý tộc vương triều Trần, nhưng sau xây dựng thế lực lật đổ vương triều Trần lúc đó đã trở nên thối nát, lập ra vương triều mới : Triều Hồ (Lích sử Việt Nam T.,1). Do vậy, sau khi lên ngôi, ông xây dựng kinh đô mới An Tôn, dân gian gọi là thành Nhà Hồ, tức Tây Đô (nay thuộc Vĩnh Lộc, Thanh Hoá) và thực hiện một loạt cải cách quan trọng. Nơi đây, vẫn còn đền thờ Hồ Quý Ly và truyền tụng nhiều truyền thuyết, huyền thoại về thành nhà Hồ và về vương triều ngắn ngủi này.

Một vương triều khác kế tiếp, vương Triều Lê với vị vua sáng nghiệp là Lê Lợi đã thai nghén và dựng nghiệp lớn từ mảnh đất Lam Kinh, Xứ Thanh. Đây là một triều đại phong kiến lớn và rực rỡ nhất của chế độ quân chủ Việt Nam. Ngoài những gì sử sách ghi chép thì trong dân gian, những di tích và truyền thuyết về Lam Sơn vẫn để lại những dấu ấn đậm nét. Nổi tiếng nhất là sự tích gươm thần và việc Vua Lê Lợi trả kiếm cho Rùa Vàng, để lại cái tên hồ Hoàn Kiếm ở trung tâm Thăng Long.
Ngoài ra, ở Lam Kinh và các vùng khác ở Xứ Thanh liên quan tới cuộc khởi nghĩa Lê Lợi, thì trong tâm thức người dân vẫn không phai mờ những sự tích, truyền thuyết, trong đó Lê Lợi là nhân vật trung tâm. Đó là các truyền thuyết, sự tích gắn với núi Mục Sơn, nơi tiền đồn của nghĩa quân Lam Sơn, đến núi Voi, một môtíp về truyện con voi bất nghĩa, về Núi Rồng có mắt rồng canh gác bảo vệ nghĩa quân thời còn non yếu, Núi Dầu gắn với sự tích Ông bán dầu, tức Trần Nguyên Hãn trước khi gặp Lê Lợi, hay Bà hàng dầu, người chuyên tiếp tế dầu cho nghĩa quân, truyền thuyết về Lê Lai liều mình cứu chúa. Rồi hàng loạt truyền thuyết khác liên quan tới Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn, tạo thành một vùng truyền thuyết Lam Sơn, phổ biến không chỉ ở người Kinh mà cả người Mường nữa (Truyền thuyết và cổ tích Lam Sơn, 1973).

Ngày nay, trên mảnh đất Lam Sơn, nơi quê hương của Lê Lợi và vương triều Lê vẫn còn tồn tại một quần thể di tích Lam Kinh với những lăng mộ, bia ký của các vua Lê, nền cung điện, những chạm khắc đá tiêu biểu cho kiến trúc và mỹ thuật thời Lê. Đó là những chứng tích vật chất cùng với các chứng tích phi vật thể kể trên, tạo nên tâm thức lịch sử và lòng tự hào trong lòng người dân Xứ Thanh.

Lễ hội Lam Kinh

Một vương triều khác, tuy không xây dựng trên chính mảnh đất Xứ Thanh, nhưng những người sáng nghiệp lại có gốc rễ từ đây, đó là nhà Nguyễn, vương triều cuối cùng của chế độ phong kiến nước ta. Người khởi nghiệp các Chúa Nguyễn Đàng Trong là Nguyễn Hoàng. ông là con Nguyễn Kim, quê ở làng Gia Miêu, huyện Hà Trung, Thanh Hoá, là viên tướng của Chúa Trịnh, với con mắt nhìn xa trông rộng đã vận động xin vào trấn thủ Thuận Hoá và Quảng Nam, từ đó xây dựng thanh thế trở thành tập đoàn Chúa Nguyễn Đàng Trong. Nguyễn Hoàng và những người kế nghiệp, như Nguyễn Phúc Chu, Nguyễn Phúc Khoát..., một mặt đối địch với Chúa Trịnh ở Đàng ngoài, mặt khác, tăng cường mở rộng lãnh thổ, khai phá vào phía nam, tạo nên giang sơn riêng. Trong quá trình khai phá phương nam như vậy, Chúa Nguyễn vận động nhiều cư dân vùng Thanh Nghệ vào lập nghiệp, là tổ tiên chính của người Việt ở vùng trung và nam Trung Bộ ngày nay. Do vậy, những mối dây liên hệ về xã hội và văn hoá giữa Thanh Hoá với đàng trong, nhất là các tỉnh miền trung là một thực tế lịch sử. Công bằng mà nói, việc Chúa Nguyễn cát cứ khai thác Đàng trong, về phương diện nào đó tạo nên một động lực lịch sử cho quá trình mở mang bờ cõi và định hình cương vực quốc gia Việt Nam. Sau này, Nguyễn ánh khi đánh bại Tây Sơn, khôi phục vương triều dòng họ Nguyễn thì vẫn coi Thanh Hoá là đất tổ của mình.

Xứ Thanh còn là quê hương của nhiều sự kiện và nhân vật lịch sử khác nữa, như Lê Phụng Hiểu, một võ tướng có công lớn với vua Lý, người duy nhất được hưởng lộc "thác đao điền", khi mất trở thành một vị thánh - Thánh Bưng, Thánh Tến, được thờ phụng và hàng năm tổ chức nghi lễ có trò Chèo Chải ở Hoằng Sơn quê Ông; như Nguyễn Hữu Cảnh, người đất Hà Trung, có công lớn trong việc chinh phục Chiêm Thành, Chân Lạp, làm trấn thủ nhiều vùng phiên trấn ở phương Nam; như Đào Duy Từ, một người văn võ song toàn, vừa là tác giả của cuốn binh thư Hổ trướng khu cơ, bàn về việc xây đắp thành, vừa là một nhà nghệ thuật sân khấu với các vở tuồng nổi tiếng, phụ trách nhà hát tuồng thời chúa Nguyễn (Địa chí Thanh Hoá, t.,2)...

Không rõ có phải Xứ Thanh là vùng đất "địa linh nhân kiệt", vùng đất của những "quân vương" nên con người Xứ Thanh luôn có tâm lý "hướng thượng", muốn thành "đầu lĩnh", cứ có đến hai người Thanh Hoá trở lên là họ ít khi "chịu" nhau, do vậy ở người Xứ Thanh tính cố kết địa phương có phần giảm thiểu hơn người Xứ Nghệ ?

Cũng như đồng bằng Bắc Bộ, Thanh Hóa là nơi con người tụ cư và khai phá từ rất sớm, xứng đáng là cái nôi ra đời các làng xã cổ và nền văn hóa truyền thống. Tương tự với cơ cấu xã hội được gọi là làng, ở Thanh Hóa còn có nhiều tên gọi khác, như kẻ, xá, trang, hương, phưòng, vạn ... Với hiểu biết cho tới nay, tên gọi kẻ phân bố từ Bắc Bộ đến trung Trung Bộ, tuy nhiêm đậm đặc hơn cả vẫn là ở Bắc Bộ và Thanh Hóa, thậm chí ở Thanh Hóa tên gọi kẻ còn thấy nhiều hơn cả ở Bác Bộ. Kẻ là tên gọi khá cổ, xuất phát từ tên gọi nơi tụ cư, cộng cư của các gia đình tiểu nông, mà sau này nó đồng nghĩa với tên gọi làng, thôn. Hiện tại có nhiều cách cát nghĩa tên "kẻ", có người cho rằng tên kẻ bắt nguồn từ "quel" trong tiếng Mường, mà sau này thành từ "quê" (về quê, quê hương) trong tiếng Việt. ở Bắc Bộ tên "kẻ" thường bị Hán - Việt hóa thành tên "cổ", như Cổ Loa (Hà Nội), Cổ Lễ (Nam Định), còn ở Thanh Hóa vốn là địa bàn người Việt sống gần gũi với người Mường nên tên "kẻ" còn lưu lại nhiều hơn.

Tên gọi "xá" kèm theo tên một dòng họ cũng là một hiện tượng khá phổ biến ở Bắc Bộ và Thanh Hóa, như Cao Xá, Ngô Xá, Đỗ Xá, Hoàng Xá, Lê Xá ...Đó là đấu tích của các làng xưa có một dòng họ hay dòng họ lớn, dòng họ đầu tiên lập nên làng. Các làng ven sông, biển ở Thanh Hóa quen gọi là Vạn, phường, như Vạn Biện Thượng (Vĩnh Lộc), Vạn ái Sơn (Đông Sơn), Phường Thượng Sa (Thiệu Hóa), Phường Mỹ Quan (Hà Trung) ... Những tên gọi trên mách bảo chúng ta rằng, làng xã Thanh Hóa còn lưu giữ các hình thức tên gọi khá cổ xưa.
Xét về nghề nghiẹp và một số đặc trưng xã hội, làng ở Thanh Hóa cũng khá đa dạng, như làng thuần nông, làng thủy cơ chuyên nghề đáng cá hay kết hợp đánh cá với nông nghiệp, làng có nghề thủ công, làng khoa cử, làng có các trò diễn nổi tiếng ...

"Con đĩ đánh bồng" - một trò diễn dân gian nổi tiếng của Thanh Hóa

Làng xã Thanh Hóa không chỉ cổ xưa và tổ chức chặt chẽ như đồng bằng Bắc Bộ mà các sinh hoạt tín ngưỡng, phong tục, lễ hội cũng rất phong phú. Về tín ngưỡng tôn giáo, các làng xã đều thờ Phật, Đạo, Nho, Kitô giáo và các tín ngưỡng dân gian khác như nhiều làng quê ở Bắc Bộ. Tuy nhiên, trên đất Thanh Hóa người ta vẫn thấy nổi lên một số hiện tượng tín ngưỡng khá độc đáo, đó là việc thờ phụng Thánh Mẫu Liễu Hạnh, Đạo Đông (Đạo nội chính tông) và Thần Độc Cước.

Đối với Đạo Mẫu, ngoài Phủ Giầy được coi là trung tâm của đạo Mẫu Tam phủ và Tứ phủ của nước ta , thì Thanh Hóa với Đền Sòng, Phố Cát được coi như một trong những nơi phát xuất hình thức tín ngưỡng dân gian này. Theo Thanh Hóa chư thần lục, soạn năm Thành Thái thứ 15 (1903) thì ở Thanh Hóa có 48 địa điểm có đền miếu thờ Liễu Hạnh với vị trí là một Thượng đẳng thần. Như ở huyện Tống Sơn có xã Cổ đam, tức Đền Sòng, huyện Nga Sơn có các thôn Hà, thôn Thổ Khối, thôn Cự, làng Phùng Thiện, ấp Quy Nhân, thôn Văn Phú, xã Hy Vịnh, thôn Ngọc Lâu, thôn Mậu Xuân, thôn Bãi Nãi, thôn Xa Liễn, làng Nam Sơn, thôn Vạn Tiền. Huyện Hậu Lộc có các thôn Phong Mục, thôn Phúc Thọ, thôn Phú Xá. Huyện Ngọc Sơn có các xã Du Xuyên, thôn Xuyết Tân, xã Lại Xá, thôn Hậu Đại, thôn Hào Môn, thôn Yêm, thôn Hào Vịnh, thôn Khánh Trạch, thôn Sơn Châu, thôn Thạch Luyện, thôn My Điền. Huyện Nông Cống có xã Xuân Hòa, huyện Vĩnh Lộc có xã Biểu Hiện, thôn Thạch Bằng, thôn Đông Trung, thôn Hưng, huyện Thạch Thành có Phố Cát, xã Mỹ Tân, xã Đồng Tráng, xã Ngọc Trạo, xã Tây trác, xã Tế Hộ. Huyện Thụy Nguyên có xã Như Lăng, xã Đại Lý, xã An Lạc, xã Thọ Sơn. Huyện An Định có xã Phương Thị, huyện Mỹ Hào có thôn Đại Điền, huyện Đông Sơn có giáp Nam Phố, ấp Nam Lý (Thanh Hóa chư thần lục, bản chép tay, Viện Hán Nôm).

Thanh Hóa không dừng lại ở chỗ có nhiều nơi thờ phụng Thánh Mẫu Liễu Hạnh mà chính là ở chỗ vị trí của Thanh Hóa trong việc hình thành và định hình hình thức tín ngưỡng dân gian độc đáo này. Nếu như Phủ Giầy được coi là nơi giáng trần lần đầu của công chúa Liễu Hạnh, nơi bà sống cuộc sống trần gian với cha mẹ, chồng con, tức cuộc sống trần tục, chưa có chút gì là là linh thiêng, siêu thực, thì Đền Sòng là nơi giáng trần lần cuối với đầy đủ tính chất của một biểu tượng thần linh với cuộc đối đầu với dòng phù thủy nội đạo trong trận Sòng Sơn đại chiến. Đặc biệt, nơi đây Liễu Hạnh được Phật Bà Quan Âm cứu vớt và cảm hóa từ một ác thần tác oai tác quái, trừng phạt hết người này đến người khác, khiến kinh động cả triều đình, trở thành một phúc thần ban phúc lộc, may mắn, sức khỏe cho chúng sinh. Thanh Hóa cũng là mảnh đất đã diễn ra cuộc đối đầu giữa dòng tín ngưỡng Nội đạo và đạo Mẫu hay đúng hơn là giữa đạo phù thủy và shaman giáo trong phạm vi Nội Đạo Việt nam (hiểu Nội Đạo theo nghĩa rộng nhất là tín ngưỡng bản địa). Ngoài ra, cũng phải kể đến vùng thờ Mẫu khá đậm đặc này nằm trên trục giao thông bắc nam, nơi diễn ra các quan hệ giao lưu buôn bán tấp nập, môi trường thuận lợi cho việc hình thành một hình thức tín ngưỡng liên quan chặt chẽ với nghề buôn. Do vậy, có thể nói rằng, chính trên mảnh đất Thanh Hóa tín ngưỡng thờ Mẫu mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam đã hình thành và định hình.

Thuở ban đầu cũng như hiện nay dưới dạng tàn dư, dòng Nội đạo có diện phân bố khá rộng, phía bắc tới các địa phương khác nhau ở đồng bằng Bắc Bộ, còn phía nam thì ít nhất cũng vươn tới vùng Nghệ Tĩnh. Tuy nhiên xét về gốc tích cũng như nơi còn lại khá đậm nét của dòng Nội Đạo này thì phải kể tới vùng An Đông, một xã thuộc huyện Quảng Xương (Thanh Hóa). Do vậy, xưa nay ngươi ta vẫn gọi đạo phù thủy này là Đạo An Đông, Đạo Đông, được Vua Lê, Chúa Trịnh phong là Nội Đạo chính tông. Còn Trần Lộc người khởi đạo này thì quê ở An Đông được cả dân gian lẫn triều đình coi là ông tổ của dòng nội đạo này.

Về bản chất, Nội đạo An Đông là đạo phù thủy xử dụng các phép thuật điều khiển các âm binh để trừ tà chữa bệnh. Ông tổ dòng đạo này là Trần Lộc, tương truyền đã từng chữa khỏi bệnh cho vua Lê Thần Tông, đã đánh yêu tinh ở núi Mỏ Diều, đã trừ được 9 con yêu quái khác ở cửa bể Tây Nam ... (Phạm Đình Hổ, 1970). Điện thần của Nội Đạo gồm Thượng Phật ở vị trí cao nhất, thứ hai là Phật tổ Như Lai Trần Ngọc Lành (Trần Lộc), hàng thứ ba là các thánh, tương truyền là con trai của Phật tổ Như Lai Trần Ngọc Lành, đó là : Tả quan thánh Nhật Quang, Hữu quan thánh Nguyệt Quang, Tiền quan Thánh Ngọc Quang, Hậu quan Thánh, con trai của Tiền quan thánh. Hàng thứ tư là các thần tướng, như Bát bộ kim cương, Thập nhị nguyên soái, Bạch xà thần tướng, Ngũ hổ thần tướng, Bạch tượng cửu nha ... Đó đều là các vị thần của Đạo giáo. 

Hệ thống kinh đã được biên soạn, gồm 3 tập trong Nội đạo Tam thánh linh ứng chân kinh, nội dung chính là ca ngợi công đức của các thánh, cầu phong đăng hòa cốc, các bài khấn, ấn quyết giải ách trừ tà. Các pháp sử dụng các bí thuật như việc "triệu âm binh", các "bí ngôn" là các lời khấn, lời phán truyền để giao tiếp với thần linh, các động tác "bắt quyết", "yểm bùa" ...để giải ách, trừ tà.

Như vậy, Nội đạo là một sự hỗn hợp, pha tạp giữa các hình thức tín ngưỡng dân gian với Phật giáo, Đạo giáo. Đạo tổ của Nội đạo khoác tấm áo của Phật Tổ Như Lai cũng như việc thực hành tín ngưỡng này trong phạm vi ngôi chùa thờ Phật, việc dùng các bộ kinh trong đó chứa đựng nội dung Phật giáo và đạo giáo ... cho thấy sự hỗn hợp tôn giáo tín ngưỡng ở đây là khá sâu sắc, tạo nên một hình thức tín ngưỡng rất đặc thù ở Thanh Hóa trước kia cũng như hiện nay.

Lễ hội bánh chưng - bánh dày

Ở nước ta, không có nơi nào thần Độc Cước lại được thờ phụng nhiều như ở Thanh Hóa. Sầm Sơn là nơi hình thành huyền thoại vị thần này và có đền thờ thần Đọc Cước (còn gọi là Thánh Độc, Độc Cước chân nhân). Tương truyền, để giúp dân chài lưới đánh cá trên biển, vị thần này đã tự phân thân, một nửa ở trên bờ, còn một nửa ở dưới biển Đông để đánh đuổi bọn quỷ Đỏ (quỷ Đông). Vị thần này đã để lại dấu chân khổng lồ trên mỏn núi đá Cố Giải thuộc dãy núi Trường Lệ( Sầm Sơn) nhô ra biển. Nhân dân lập đền thờ và đặt tên là thần Độc Cước (thần Một Chân). Ngoài Sầm Sơn, ở Thanh Hóa còn có 11 huyện, trong đó có 53 làng có thần vị và thờ cúng thần Độc Cước, như : Ngọc Sơn (14 làng), Mỹ Hóa (8 làng), Hoằng Hóa (9 làng), Hậu Lộc (6 làng), Yên Định (4 làng), Quảng Xương (3 làng), Cẩm Thủy (3 làng), Lôi Dương (2 làng), Nga Sơn (1 làng), Thụy Nguyên (1 làng), Đông Sơn (1 làng) (Địa chí Thanh Hóa, T.,2, 2003).

Thần Độc Cước được đưa vào thần điện Phật giáo với tư cách như là đệ tử của Quan Thế Âm Bồ Tát. Đồng thời thần điện Đạo giáo Việt Nam cũng coi Độc Cước như là một vị thần của mình. Do vậy có thể coi đây như là một hình thức tôn giáo tín ngưỡng pha trộn giữa tín ngưỡng dân gian với Phật giáo và Đạo giáo.

Ngoài những tín ngưỡng kể trên, ở Thanh Hóa còn có nhiều vị thần được tôn thờ ở nhiều làng khác nhau, tạo thành những vùng thờ các vị thần khác nhau. Trong Thanh Hóa chư thần lục, người ta đã thống kê tới 414 làng thờ Sơn Thần ( Cao Sơn Tôn Thần) với các danh xưng khác nhau, như : Sơn Tiêu độc cước, Cao Sơn lập thạch, Cao Sơn hiệp linh tôn thần, Miêu Sơn tôn thần, Kiều Lộ tôn thần ...Cao Sơn tôn thần được thờ ở 15 huyện khác nhau, trong đó đậm đặc hơn cả ở các huyện vùng giáp núi bán sơn địa, như Nông Cống (56 nơi thờ), Lôi Dương (82 nơi), Ngọc Sơn (71 nơi), Thụy Nguyên (24 nơi), Tống Sơn (29 nơi) ...Điều này phản ánh tâm thức hướng về nguồn cỗi núi rừng, nơi mà theo các kết quả nghiên cứu khảo cổ học những năm gần đây là người miền núi hang động đã xuôi theo lưu vực sông Mã xuống khai thác đồng bằng Thanh Hóa trong thời kỳ đá mới và sơ kỳ kim khí.

Nếu vùng ven núi thờ Cao Sơn tôn thần như vậy, thì ven biển phổ biến thờ Đông Hải đại Vương và Tứ Vị Thánh Nương. Đông Hải Đại Vương là một vị thần biển, được 72 làng ven biển thờ hay chọn làm thành hoàng, trong đó một số nơi đã "lịch sử hóa" và đồng nhất vị thần này với Đoàn Thượng (đời Trần) và Nguyễn Phục (đời Lê) thành Đông Hải đại vương Nguyễn Phục và Đông Hải đại vương Đoàn Thượng. Một số làng khác thì vẫn thờ Đông Hải đại vương.

Tứ Vị thánh nương (với tước hiệu Đại Càn quốc gia Nam Hải tứ vị Thánh Nương) là vị thần biển được 94 làng thuộc 11 huyện của Thanh Hóa phụng thờ, trong đó đậm đặc nhất là ở các huyện Ngọc Sơn (33 làng), Hoằng Hóa (16 làng), Quảng Xương (13 làng), Nga Sơn (10 làng) ...Vị thủy thần này được thờ nhiều nhất là ở các cửa sông, lạch đổ ra biển, như Lạch Bạng, Lạch Mom, Lạch Vích... Nơi phát xuất sự tích và thờ cúng Bà là ở Cửa Cờn (Quỳnh Lưu, Nghệ An), sau "trôi dạt" đi khắp bờ biển từ bắc tới nam. Tứ vị Thánh Nương được tôn vinh là Thượng đẳng thần còn trên cả Đông Hải đại vương. Do vậy, vào mùa lễ hội, kiệu của Đông Hải đại vương phải rước tới đền thờ Tứ vị Thánh Nương, coi như là "em tới thăm chị", sau đó kiệu Tứ Vị Thánh Nương mới tới đền Đông Hải đại vương, coi như là "chị đi thăm em".
Như trên đã nói, Thanh Hóa là vùng đất vừa mang tính huyền thoại vừa mang tính lich sử. Huyền thoại vì vùng đất này cũng là cái nôi hình thành dân tộc, hình thành quốc gia, hình thành văn hóa, do vậy không thiếu gì những hiện tượng mang tính huyền sử. Đó là các nhân vật khổng lồ có sức mạnh phi thường xẻ núi lấp biển, những Ông Gióng đánh giặc Ân, An Dương Vương xây thành, Mỵ Châu - Trọng Thủy, các vị Thánh Cao Sơn Đại vương, Tứ Vị Thánh Nương, Thánh Lưỡng, Thanh Bưng cũng như hàng trăm vị Thành Hoàng nửa huyền thoại, nửa lịch sử. Lịch sử vì trên mảnh đất này chứng kiến bao sự kiện lịch sử hào hùng, nơi sinh thành nhiều vị vua sáng nghiệp, nhiều anh hùng lừng danh và vô danh. Điều này đã để lại những dấu ấn sâu sắc không chỉ trên các trang sử được ghi chép qua các triều đại, mà còn trong các lễ nghi, phong tục, hội hè. Đó là thứ lịch sử được ghi khắc trong tâm thức của nhân dân, thậm chí là những người không có chữ, không biết chữ, nhưng cứ đến dịp lễ tiết hàng năm, nó lại được tái hiện thông qua các lễ hội, các nghi lễ, diễn xướng thấm đượm tính lịch sử, hơn thế nữa, nó đã trở thành một thứ chủ nghĩa yêu nước đã được linh thiêng hóa, tín ngưỡng hóa.
Có lẽ xuất phát là từ hệ thống thần thoại, huyền thoại của Thanh Hóa phản ánh hệ ý thức của con người trên các phương diện khai phá đất đai hình thành quê hương xứ sở, về đấu tranh khắc phục những lực lượng cản trở của thiên nhiên, khẳng định sức mạnh của con người, đấu tranh chống ngoại xâm, khai phá đát đai, sáng tạo nghề nghiệp, khẳng định cương vực ...Tất cả kho tàng huyền thoại và thần thoại này đều được thần tích hóa và chừng nào còn lịch sử hóa nữa, từ đó tạo nên một lớp các nhân vật nửa huyền thoại nửa lịch sử, một lực lượng mang tính siêu nhiên bảo vệ, che trở cho sự tồn vong của cộng đồng dân tộc, được nhân dân lập đền miếu thờ phụng, hàng năm mở hội tưởng niệm.

Lớp nhân vật thứ hai được nhân dân tôn thờ, đó là các nhân vật lịch sử, những nhân thần vốn đương thời là những con người có công với dân làng, địa phương trong việc giữ nước chống ngôại xâm, mở mang ngành nghề, xây dựng quê hương, sau khi mất hiển linh và trở thành các vị thành hoàng làng, được nhân dân tin sùng, thờ phụng và hàng năm mở hội làng để tưởng niệm và cầu mong sự che trở.

Liên quan tới hệ thống lễ hội của Thanh Hóa còn có hệ thống các vị thần linh của các tôn giáo, tín ngưỡng, như Phật giáo, Đạo giáo dân gian, các tín ngưỡng liên quan tới Sơn thần, Thủy thần, liên quan tới các nghi lễ nông nghiệp, ngư nghiệp, các thần tổ các ngành nghề ...
Đó là lớp thần tích vừa do sự tưởng tượng, sáng tạo của dân và về sau này còn do sự san định và phong thần của triều đình phong kiến, mà ngày nay trải qua bao cuộc binh lửa, nhân dân các địa phương vần lưu giữ các thần tích, thần sắc. Cả một hệ thống thần tích vừa phong phú vừa rất phức tạp của tín ngưỡng đa thần đã thể hiện qua thần điện các đình, miếu, đền, chùa của hầu như làng nào cũng có, nơi diễn ra các lễ hội hàng năm với các nghi thức thờ cúng, các lễ tục, các diễn xướng dân gian phong phú ...

Có thể phân chia lễ hội ở Thanh Hóa thành mấy loại chính, đó là hội làng gắn với thờ cúng thành hoàng làng, nơi sàn sinh và bảo tồn chính các lệ tục và trò diễn dân gian độc đáo của Xứ Thanh; các lễ hội mang tính lịch sử, gắn với các nhân vật lịch sử hay đã được lịch sử hóa, thường có quy mô vượt ra khỏi phạm vi của làng, trở thành lễ hội của một vùng, như lễ hội đền Bà Triệu, Dương Đình Nghệ, Lê Hoàn, Lê Phụng Hiểu, Lê Lợi, Trần Khát Chân ..., trong đó có những lễ hội còn mang tính dân gian đậm nét, nhưng cũng có những lễ hội mang tính cung đình, như Lễ hội Lam Kinh gắn với Lê Lợi. Các lễ hội gắn với các tôn giáo tín ngưỡng, như hội chùa, hội nhà thờ Thiên chúa giáo, đặc biệt là các lễ hội gắn với tín ngưỡng dân gian, như hội Đền Sòng, Phố Cát của Đạo Mẫu, lễ hội của Đạo Đông (Nội Đạo) ... Trong từng loại lễ hội như vậy, bao gồm hàng tăm lễ hội mở vào các dịp xuân thu nhị kỳ, trong đó, theo sách Địa chí Thanh Hóa, thì ở Xứ Thanh tiêu biểu hơn cả là một số lễ hội sau : Hội đền Mưng, hội Nghè Sâm, hội làng Cổ Bôn, hội làng Xuân Phả, hội đền thánh Tến, hội đền Bà Triệu, hội Lam Kinh, hội đền Le - Bố Vệ, hội làng Cự Nham, hội đền Sòng - Phố Cát.

Ngày nay, chúng ta chưa đáng giá hết được giá trị nhiều mặt của lễ hội truyền thống, nó không chỉ thỏa mãn những nhu cầu của con người về trở về nguồn, trong đó có nguồn cỗi tự nhiên, nguồn cỗi dân tộc và cộng đồng, nhu cầu về cố kết và biểu dương sức mạnh cộng đồng, về cân bằng đời sống tâm linh, về sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hóa, mà lễ hội còn là nơi bảo tàng sống văn hóa cổ truyền của dân tộc. Thử hỏi nếu chúng ta thiếu đi những lễ hội phong phú và đa dạng như vậy thì văn hóa cổ truyền Xứ Thanh nói riêng và Việt Nam nói chung sẽ mất còn ra sao. Điều đó cũng cắt nghĩa vì sao Xứ Thanh lại có thể lưu giữ lâu dài các lệ tục, diễn xướng, trò diễn dân gian phong phú và độc đáo như vậy.

Lễ hội cầu Ngư 

Hội làng ở Thanh Hóa ngoài các nghi thức cúng bái, rước tế mang tính linh thiêng, các trò diễn đóng vai trò rất quan trọng trong hội làng. Tất nhiên, trò diễn là một hiện tượng khá phổ biến trong hội làng nước ta, tuy nhiên, có thể khẳng định rằng, không nơi nào như ở Thanh Hóa còn bảo lưu kho tàng trò diễn dân gian điển hình và phong phú như vậy. Điều này chỉ có thể giải thích từ góc độ cơ cấu tổ chức làng bền vững, từ sinh hoạt hội làng, môi trường nảy sinh, tồn tại của các trò diễn dân gian.

Số lượng các trò diễn trong lễ hội ở Thanh Hóa rất lớn, có khi trong một trò, như Trò Láng, Trò Bôn, Trò Rủn ... lại bao gômg nhiều trò diễn hợp lại, do vậy, tính ra phải tới hàng trăm trò diễn khác nhau. Sách Địa chí Thanh Hóa, giới thiệu 8 trò tiêu biểu, đó là Trò Chụt, Trò Triềng, Trò Rủn, Trò Bôn, Trò Láng, Chèo Chải, Trò Rối Chuộc, Rối Si, trong đó phần lớn tên mỗi trò lấy từ địa danh làng. Ví như Trò Láng (hay Trò Xuân Phả) gồm 8 trò, như : Hội kéo, Chạy giải, Chèo thuyền múa mạn, Hoa Lang, Chiêm Thành (trò Xiêm), trò Ai Lao (trò Lào), Ngô Quốc (hay Trò Ngô), Lục hồn nhung (hay Tú Huần). Trò Bôn là tên của Kẻ Bôn, một làng thuộc xã Đông Thanh (Đông Sơn, Thanh Hóa), gồm 6 trò, như : Đấu cờ người, Tiên cuội (Tiên phường), Trò thủy (Thủy phường), Trò Ngô (Ngô phường), Trò Hà Lan (Hà Lan phường), Trò Lăng Ba Khúc ...

Trò diễn là hiện tượng khá phổ biến trong nhiều hội làng ở Thanh Hóa, tuy nhiên cũng đã hình thành nên các trung tâm, nơi mà ở đó số lượng các trò diễn đậm đặc hơn, có các trò diễn lớn và điển hình. Trong các địa phương ở Thanh Hóa thì Đông Sơn là huyện tập trung nhiều trò diễn, cũng như có nhiều trung tâm trò diễn khá tiêu biểu, như Tuyên Hóa với Ngũ Trò, Trò Thủy, trò Bắt cọp... Bôn với Trò Thủy, Tiên cuội, Lăng ba khúc, trò Ngô, trò Hà Lan, Viên Khê với các trò Múa Đèn, Tiên cuội, Trống Mõ, Xiêm Thành, Trò Thiếp , Trò Ngô...(Trần Thị Liên, 1997).

Các trò diễn ở Thanh Hóa khá đa dạng, tuy nhiên, nếu căn cứ vào nội dung phản ảnh của các trò này thì chúng tập trung vào mấy nội dung sau:

- Các trò diễn phản ánh đời sống nông nghiệp, như trò Tứ dân, trò Sĩ nông công thương, trò Múa đèn, Trò Thủy ...

- Các trò diễn phản ánh nội dung lịch sử, như Trò Láng (Xuân Phả), tái hiện lại mối quan hệ bang giao giữa nước ta và các nước láng giềng trong lịch sử, Trò Ngô, Ngô Quốc trong Trò Láng hay Trò Rủn, trực tiếp hay gián tiếp đề cập tới mối quan hệ giữa nươc ta và Ngô Quốc (Tàu), Trò Tung cù ở Vệ Yên (xã Đông Vệ, Đông Sơn) tái tạo cuộc chiến giữa quân ta và quân Ngô, các trò liên quan tới các nhân vật lích sử hay huyền thoại, như Cao Hoàng, Nguyễn Khải ...

- Trò diễn liên quan tới các phong tục của làng, như Trò Thiếp (cầu hồn), Trò Hệch, Trò vật cù, cướp cù, Chèo Làng Mưng, Tú Huần ...

Trò diễn hình thành và tồn tại trong môi trường lễ hội, nhất là hội làng, ngoài phần trò vui, nó ít nhiều gẵn với nghi thức tín ngưỡng dân gian, trong đó chủ yếu là tín ngưỡng thờ cúng Thành hoàng làng. Do vậy, các yếu tố hội (các trò diễn, các sinh hoạt giải trí, đua tài ...) đan xen với các nghi lễ, phong tục, tạo nên tính tổng thể của hội làng cũng như tính đa diện của trò diễn dân gian. Tuy nhiên cũng phải khẳng định rằng, trò diễn nói riêng cũng như sinh hoạt hội làng nói chung đều hình thành và tồn tại trên nền tảng và môi trường tín ngưỡng dân gian, nếu tách chúng ra khỏi môi trường này thì lễ hội cũng như diễn xướng cũng không thể tồn tại lâu dài được.

Nhiều nhà nghiên cứu đã thấy trong tò diễn dân gian ở Thanh Hóa những yếu tố tiền sâu khấu. Đó là trong các "tích" đã bắt đầu hình thành các cốt truyện, đó là những lời thoại của nhân vật khi diễn xướng với những mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn mang tính kịch, đó là tính cách của một số nhân vật đã bắt đầu hình thành, như Thằng ngô, Con đĩ, các nhân vật Sĩ, Nông, Công, Thương .... Đặc biệt ở đây ta có thể thấy được những nét tương đồng, ảnh hương qua lại giữa trò diễn và sân khấu dân gian, như Chèo, hát Bội. 

Hai hình thức sân khấu có mối liên hệ khá mật thiết với trò diễn dân gian Xứ Thanh là Chèo và Hát bội. Thực ra, trong quan niệm của người dân Xứ Thanh, không có sự phân biệt thật rõ ràng giữa Chèo và Hát bội. Theo nghệ sĩ Nguyễn ổn (Cả ổn), người từng đóng các vai Lã Bố, Quan Công, Tiết Đinh Sơn trong các vở Hát bội ở Thanh Hóa, thì " Chèo là Bội và Bội cũng là Chèo" hay "trong Bội có Chèo và trong Chèo có Bội" . Vào những năm đầu thế kỷ XX, ở Xứ Thanh hình thành nên nhiều phường Hát Bội dân gian, như Phường Bội làng Quỳ Chử ở xã Hoàng Quỳ, huyện Hoằng Hóa, phường Bội làng Vĩnh Gia ở xã Hoàng Phượng, huyện Hoằng Hóa, Phường Bội làng Phú Khê, huyện Hoằng Hóa, phường Bội làng Tòng Tân, xã Thiệu Tân, huyện Thiệu Hóa ... Sự phân biệt giữa Hát bội, Chèo và các trò diễn, như trò Rủn, trò Bôn, Trò Láng, trò Triềng, trò Chuộc ...chủ yếu ở cấp độ của sân khấu, có nghĩa là, các vở Hát Bội là các vở diễn hoàn chỉnh theo "tích", khác với xem các "trò" ở đình, nghè trong các dịp lễ hội. Trước những năm 20 của thế kỷ XX, người dân Thanh Hóa cũng không quen dùng tên gọi "Hát tuồng", mà chỉ gọi là "hát Bội" mà thôi. Như vậy, ở Xứ Thanh từ căn cỗi các hình thức sân khấu Chèo, Bội, trò diễn có nét gần giũ với nhau và ảnh hưởng qua lại với nhau. Hát Chèo và Hát Bội đều có những yếu tố nguồn gốc trong trò diễn dân gian, tuy nhiên, để hình thành nên hát Bội trước kia và Hát Chèo từ thời cận đại đến nay không thể không kể tới yếu tố ành hưởng của Tuồng và Chèo cân hiện đại. Đó chính là nét độc đáo, nét riêng biệt của quá trình hình thành sân khấu Hát Bội và Chèo của Xứ Thanh.

Liên quan tới hình thức sân khấu Hát Bội, chúng ta không thể không kể tới nhân vật Đào Duy Từ. Ông vốn xuất thân từ gia đình kép hát ở làng Nổ Giáp, huyện Tĩnh Gia, Thanh Hóa. Trưởng thành, ông vào Đàng Trong giúp Chúa Nguyễn truyền dạy nghề Hát Tuồng, giới sân khấu tuồng Huế thờ Đào Duy Từ là một trong những tổ nghề. Do vậy, có người đã giả thuyết rằng Đào Duy Từ đã mang hát Bội từ Thanh Hóa vào miền trung để sáng tạo ra Tuồng Huế và Hát Bội vùng Xứ Quảng.

Trên mảnh đất Xứ Thanh nghề hát Ca Công - hát Cửa Đình cũng khá phát triển. Tương truyền tổ sư nghề hát Ca Công này là ở làng Ngọc Trung (tức Xuân Minh, huyện Thọ Xuân ngày nay), với duệ hiệu là Thanh Xà trơn thuận tôn thần và Mãn Đường Hoa công chúa. Các làng hát Ca Công nổi tiếng ở Thanh Hóa, như Bái Thủy (Yên Định), làng Hoa Trai (Tĩnh Gia), Hoa Nhai (Thiệu Hóa), Tòng Tân (Thiệu Hóa) , Quán Nhà Trò (Quảng Xương) ... Hát Ca Công là hát nghi lễ ở đình, nên còn có tên là hát Cửa Đình . Từ hình thức hát nghi lễ mang tính dân gian này đã phát triển lên các hình thức cao hơn, nhưng cũng xa rời môi trường tín ngưỡng hơn, đó là Hát Ca trù, Hát ả Đào, Hát Cửa Quyền, một hình thức hát mang tính thính phòng, hát cung đình.

Người ta cũng đã nói về mối quan hệ giữa Hát Ca Công-Hát Cửa Đình của Thanh Hóa với các làng hát Ca Trù, như Cổ Đạm (Hà Tĩnh) và Lỗ khê (Đông Anh, Hà Nội), ngoài việc cùng thờ Thanh Xà tôn thần và Mãn Đào công chúa, thì phải chăng còn có mối quan hệ nguồn gốc cư dân từ Xứ Thanh ? Chỉ biết rằng ông Tổ nghề ca trù ở Lỗ Khê (Hà Nội) là Đinh Triết, con trai Đinh Lễ là người Thanh Hóa vốn đàn hay hát giỏi, kết duyên với cô gái Nga Sơn (Thanh Hóa), cũng là một ca sĩ. Hai người đã có công phát triển nghề ca trù ở Lỗ Khê và sau khi mất được thờ làm tổ nghề ca trù. 

Để kết luận, chúng tôi muốn đề cập đến một vấn đề mang tính chung nhất, mà có lẽ từ đó tạo nên những sắc thái văn hóa độc đáo của xứ này, đó là tính vừa hoàn chỉnh, biệt lập tương đối lại vừa trung gian, chuyển tiếp của Xứ Thanh trong tổng thể văn hóa xã hội Việt Nam.

Về phương diện địa lý tự nhiên, như nhà địa lý học Lê Bá Thảo đã nói, đồng bằng châu thổ Sông Mã, như là sự lặp lại của đồng bằng châu thổ Bắc Bộ (châu thổ sông Hồng) cả về phương diện hệ thống đồi núi bao bọc thượng nguồn, đến lượng phù sa bồi đắp ở hạ lưu, độ cao đồng bằng châu thổ. Chính vì vậy, có thể coi đồng bằng châu thổ sông Mã là hệ thống châu thổ đứng thứ ba sau châu thổ sông Hồng ở phía bắc và Cửu Long ở phía nam. Về cơ cấu cư dân và dân tộc, về quá trình hình thành quốc gia và văn hóa, Xứ Thanh đều nằm trong một cái nôi chung với Bắc Bộ, thậm chí như là một phiên bản của Bắc Bộ. Tuy nằm trong cùng một hệ thống lịch sử-văn hóa với Bắc Bộ, nhưng xứ Thanh vẫn mang tính “biệt lập” nhất định và trên một mức độ nào đó nó tồn tại như một hệ thống riêng, một phiên bản của cả hệ thống chung. Như vậy, Thanh Hóa với cái nôi văn hóa-lịch sử miền Bắc nó vừa mang tính chung lại vừa mang tính khác biệt, biệt lập.

Với miền Trung, Xứ Thanh như là sự mở đầu, trước nhất cho một mô hình hệ sinh thái kết hợp chặt chẽ giữa đồng bằng, rừng núi và biển cả. Thanh Hóa chưa được coi là Tứ trấn nội Kinh nhu Kinh Bắc, Sơn Nam, nhưng cũng không phải là vùng trại xa xôi như Xứ Nghệ. Tính trung gian chuyển tiếp không chỉ trên bình diện môi trường địa lý tự nhiên mà cả về phương diện lịch sử và văn hóa, khiến người ta coi Thanh Hóa lúc thì nhập vào Bắc Bộ, lúc thì nhập vào Trung Bộ. Đó chính là "tính cách" của một vùng mang tính chuyển tiếp văn hóa, từ đó tạo nên tất cả những gì gọi là nét riêng của Xứ Thanh. 

P.V