Trung Túc Vương Lê Lai - Công thần khai quốc

Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh giành lại giang sơn, xây dựng nên nước Đại Việt tự do và phát triển trải qua 26 triều đại vua vĩ đại trong vòng 354 năm. Để có được trang sử vẻ vang đó, những nhân tài xuất chúng đã phải trải qua chiến đấu và hi sinh gian khổ và giai đoạn đầu là thời kỳ “Nhen lửa”.


Vào ngày 12 năm Ất Mùi (1415), bốn người: Lê Lợi, Lê Lai, Đinh Liệt và Nguyễn Thận, ngồi dưới gốc cây đa cổ thụ Phật Hoàng, bàn đường lối bình Ngô cứu quốc, lên phương án vận động tráng niên hào kiệt, hiền tài về Lam Sơn tụ nghĩa và tôn Lê Lợi lên làm Lam Sơn Động chủ. Cuộc khởi nghĩa Lam sơn bắt đầu từ đây. Cùng với sự lãnh đạo khéo léo, đường lối quân sự lỗi lạc của Lê Lợi đã đưa cuộc kháng chiến kéo dài hơn 10 năm mới giành được thắng lợi hoàn toàn. 

Thắng lợi đó đã sinh ra 277 vị công thần khai quốc dưới chế độ vua tôi, xây dựng nên nước Đại Việt giữ được nền độc lập hơn ba thế kỉ, ghi vào trang sử vẻ vang hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Sau những năm kháng chiến gian khổ, Lê Lợi lên làm vua được 6 năm. Tháng 8 nhuận năm Quý Sửu (1433) vua Lê Thái Tổ về Lam Kinh và từ trần vào ngày 22 tại chính tẩm. Trước lúc nhà vua quy tiên chầu phật còn dặn lại các hoàng tử và hoàng tộc phải giỗ Công thần đệ nhất Lê Lai trước ngày giỗ của mình một ngày (Đại Việt sử kí toàn thư). Từ đó nhân dân ta có câu “21 Lê Lai – 22 Lê Lợi”. Ý nghĩa lời dặn trên là thế nào, thân thế và sự nghiệp Lê Lai ra sao? 

Tương truyền rằng gia đình Lê Lai là quý tộc thuộc người dân tộc ở vùng miền Tây Thanh Hóa. Cụ thân sinh ra Lê Lai là Lê Kiều, mẹ là Lê Thị Kiệu và sinh được hai người con trai. Cả là Lê Viết Giản, thứ là Lê Lai.Lê Lai sinh năm 1355 tại làng Dựng Tú, sách Đức Giang, huyện Lương Giang, phủ Thanh Hóa. Địa danh đó thời nhà Nguyễn là làng Tép, thôn Dựng Tú, Tổng Cốc Xá, Châu Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa. Ngày nay là làng Thành Sơn, xã Kiên Thọ, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa. Tầm vóc thân thể Lê Lai cao, to, da ngăm đen, tính tình cương trực, chí khí cao cả lẫm liệt, dung mạo khác thường. Là con nhà quý tộc nên được học hành đến nơi đến chốn, do đó khi trưởng thành cũng kế được nghiệp cha là Phụ đạo sách Đức Giang, huyện Lương Giang. Vợ Lê Lai là bà Lê Thị Đạo, sinh được 3 người con trai theo thứ tự: Lê Lư (Lê Lô), Lê Lộ, Lê Lâm. Cả ba anh em đều là tướng giỏi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. 

Lê Lai và Lê Lợi lệch nhau về tuổi đời nhưng cùng chí hướng và ngang về vị trí, quyền chức ở hai vùng Đức Giang và Khả Lâm nên rất thân nhau. Hai ông thường đến khu rừng bìa làng Tép gọi là Gò Sánh để đàm đạo thế thái nhân tình bình quốc sự (nay là khu đền thờ Trung Túc Vương Lê Lai). Do vậy, lòng yêu nước căm thù giặc được nung nấu trong lòng các ông đã lên đến đỉnh điểm. Lê Lợi có người bạn tâm đầu ý hợp bên cạnh nên đã tạo cho ông ý chí quyết tâm cao hơn, nên ông đã đi khắp vùng để thăm dò ý nguyện của các hào kiệt tráng sĩ và thu hút nhân tâm. Sau khi Lê Lợi đã nắm bắt được thực tế thì ông bàn với Lê Lai: “Ông phải là người đầu gia nhập đội quân Lam sơn để thu hút các hào kiệt bốn phương về Lam Sơn tụ nghĩa”. Tháng 2 năm Ất Mùi (1415) đã có 3 người gia nhập nghĩa quân gồm: + Lê Lai giờ Thìn ngày 6/2 Ất Mùi (1415) + Đinh Liệt giờ Dậu ngày 8/2 Ất Mùi (1415) + Nguyễn Thận giờ Thìn ngày 9/2 Ất Mùi (1415) Đến ngày 12/3 năm Ất Mùi, bốn người tôn Lê Lợi lên làm Lam Sơn Động Chủ. Từ đó cuộc khởi nghĩa đi vào chiều rộng lẫn chiều sâu ở các làng quê của đất nước. Được toàn dân ủng hộ nên đã tuyển mộ được nhiều nghĩa sĩ yêu nước về Lam Sơn tụ nghĩa. Vì vậy, Lê Lợi đã tổ chức củng cố lại bộ máy lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa cho phù hợp với thời thế lúc này. Đến 20 Tháng 5 năm Ất Mùi (1415) ông đã thành lập ra hội đồng mưu lược gồm có 9 người: Lê Lợi, Lê Lai... Lê Văn Linh và bàn lập Hội thề Lũng Nhai, nhằm mục đích gây lòng tin tưởng, ý chí chiến đấu cho tướng sĩ nghĩa quân, đồng thời cử Lê Lai và Đinh Liệt đi tìm nơi tổ chức hội thề. Vì thế trong nhật kí của Đinh Liệt viết ngày 12/14/9 năm Ất Mùi (1915) như sau: Ta và Lê Lai đạp Linh Sơn Năm ngày ngang dọc chẳng hơi thôn (không làng bản nào) Hiểm trở sơn cùng và thủy tận Lâm nguy chỉ tàm tạm dung thân. Đúng giờ Thìn ngày 10/2 Bính Thân (1916), Tại Mường Giao Lão núi Linh Sơn, 18 tướng đã thề cùng nhau như anh em một nhà và đứng sau Động chủ Lê Lợi là Lê Lai. 

Sau Hội thề Lũng Nhai, đội quân Lam Sơn đã khởi sắc, có nhiều trận thắng lớn, thu phục được lòng dân, huy động được nhân tài và vật lực cho cuộc khởi nghĩa. Trong thời gian đó Tướng Lê Lai chỉ huy đánh một trận thắng lớn nhất trong đời binh nghiệp của ông vào ngày mồng 2 tết. Về sau lập đền thờ Lê Lai nhân dân thôn Dựng Tú lấy ngày 8 tháng giêng để mừng công của Ngài và là ngày mở hội khai hoa cho làng Tép, nơi chôn nhau cắt rốn của Ông.Từ những thắng lợi giòn giã của quân và dân với đường lối tổ chức, lãnh đạo khéo léo của ban chỉ huy cuộc khởi nghĩa, đã tạo ra sức mạnh tổng hợp làm cho thế cuộc thay đổi rất lớn. Vì vậy, ban lãnh đạo cuộc khởi nghĩa lại phải họp một lần nữa vào ngày 10 tháng chạp năm Đinh Dậu (1917), ban lãnh đạo cuộc khởi nghĩa họp bàn; Hội đồng mưu lược đổi thành Hội đồng mưu lược tối cao, số người tham gia từ 9 người lên đến 13 người: Lê Lợi, Lê Lai, Lê Văn Linh, ... Bùi Quốc Hưng và Lê Lợi lên ngôi Vua. Giờ Thìn ngày 2 tháng giêng năm Mậu Tuất nhằm ngày 7 tháng 2 năm 1418, Lê Lợi xưng Vương lấy niên hiệu là Bình Định Vương; Bộ máy vương triều có hai hàng quan tướng: Bên hàng văn có 18 người, đứng đầu là Nguyễn Thận; bên hàng tướng võ có 51 người trong đó người đứng đầu là Lê Lai. Vương triều hoạt động dưới sự chỉ đạo của Hội đồng Mưu lược tối cao đứng đầu là Bình Định Vương. Cục diện chiến trường lúc này thay đổi rất lớn ngày càng có lợi cho nghĩa quân ta. Do đó, giặc Minh cùng vương triều ra sức đàn áp một cách khốc liệt. Do thế và lực không cân sức, toàn bộ nghĩa quân phải rút lên núi Linh Sơn để cố thủ. Cuộc chiến đấu không cân sức này tưởng chừng như cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chỉ đi vào Lịch sử. Song, do sự sáng suốt của Hội đồng mưu lược tối cao, hiệu lực của Hội thề Lũng Nhai, cuộc khởi nghĩa đã bảo toàn được lực lượng cho đến ngày toàn thắng ... Bấy giờ quân Lam Sơn ít lính, thiếu lương, thường bị quân Minh đánh bại. 

Theo sách Đại Việt thông sử, cuối tháng 4 năm 1419, Lê Lợi bị thua trận ở Mường Một, chạy thoát về Trịnh Cao, quân Minh đuổi theo vây chặt các lối hiểm yếu. Lần này, quân địch bủa vây trùng điệp, vòng vây ngày càng khép chặt lại, vùng Linh Sơn lúc này còn rất hoang sơ, không có dân ở, chính nghĩa có ý chí quật cường, không dân nương tựa hơi sương. Đêm ngày 28/4 năm Kỷ Hợi (1419), Hội đồng mưu lược họp bàn tìm cách cứu vãn, tình thế lúc này như ngàn cân treo sợi tóc. Lê Sát, Đinh Bồ, Lê Thạch, Lê Thục tỏ thái độ đánh đến người cuối cùng ít nhất cũng giết được năm sáu ngàn tên địch. Đinh liệt đứng dậy nói “Tinh thần hy sinh của tướng sỹ nghĩa quân ta còn quý hơn vàng ngọc, song sự hy sinh để rồi cuộc khởi nghĩa cũng đi theo luôn, chỉ để lại hồi âm cho mai sau thì không bằng phải bàn bạc suy nghĩ tìm mọi cách cứu lấy nghĩa quân sống và tiếp tục hoàn thành đại sự ...”. Bình Định Vương và các tướng sĩ tỏ thái độ tán thành với cách đặt vấn đề của tướng Đinh Liệt. Sau đó Lê Lợi hỏi: “Có ai dám bắt chước Kỷ Tín đời Hán không?”. Các tướng đều ngồi yên không ai dám thưa. Lê Lai đứng dậy nói: “Tôi nguyện làm kỉ tín của Hán cao tổ... Tôi xin đi ”. Bình Định Vương và Tướng sĩ cảm động rơi lệ không ngớt. Lê Lai nói: “ Bây giờ đang nguy khốn, nếu ngồi giữ mảnh đất nguy hiểm, vua tôi cùng bị diệt, sợ sẽ vô ích. Nếu theo kế này, may ra có thể thoát được. Kẻ trung thần chết vì nước nào có tiếc gì?”. Lê Lợi ôm chặt lấy Lê Lai nói: “Lịch sử ghi danh vĩnh thùy bất hủ” và vái trời khấn rằng: “ Lê Lai có công đổi áo, sau này tôi và con cháu tôi và con cháu các tướng tá công thần, nếu không nhớ đến công lao ấy, thì xin cho cung điện biến thành rừng núi, ấn triện biến thành cục đồng, gươm thần biến thành dao cùn”. Đúng giờ Thìn ngày 29 tháng 4 Năm Kỷ Hợi (1419), Tại địa danh Trịnh Cao trên núi Linh Sơn, Lê Lai nhận áo hoàng bào của Bình Định Vương cưỡi voi cùng 500 quân thẳng hướng Đông Bắc tiến đánh trại quân Minh. Quân Minh đổ ra đánh. Lê Lai thúc voi xông thẳng vào giữa trận hô to: “ Ta là chúa Lam Sơn đây!” Quân Minh ngỡ là Lê Lợi nên xúm lại đánh kịch liệt. Do không cân sức, Lê Lai bị quân Minh bắt và đem về Tây Đô hành hình. Lê Lợi nhân lúc việc vây hãm của địch lơi lỏng, cùng các tướng chạy ra đường khác, trốn thoát. Cảm động lòng trung nghĩa của ông, Lê Lợi sai người ngầm tìm được thi hài ông, mang về an táng ở Lam Sơn. Tướng Đinh Liệt thương tiếc Lê Lai đã khóc: Dịch

Kỷ tín tằng tái hiện Lê Lai nguyên thế thiên Tử trung hoàn sinh địa Đại Nam sử vĩnh truyền Niệm hà thời sinh hỏa Tứ nhân đệ nhất kiênTừ Lũng Nhai minh thệ Niêm nhị khóa đào viên Xưng Vương Tết Nguyên Đán Tướng bài trạm thủ tiên Hà nhật thành đại nghiệp Ẩm hà tất tư nguyên Kỷ tín lại xuất hiện Lê Lai nguyện thay trờiTrong chết tìm đất sốngSử Nam mãi sáng ngời Nhớ ngày nào nhen lửa Kiên định nhất bốn người Từ Lũng Nhai minh thệ Vườn đào hai hai cây (1)Xưng Vương tết Nguyên Đán Tướng đứng cạnh lễ đài Ngày nào thành đại nghiệp Uống nước nhớ nguồn khơi Khi cuộc kháng chiến hoàn thoàn thắng lợi, Lê Lợi đã đưa được hài cốt Lê Lai về Lam Kinh mai táng tại Hậu Lăng. Từ đó trong bài chúc văn tế ở Lam Sơn có đoạn:....Lam Sơn tạo ứng nghĩa tòng sự Đồng hưu vĩnh chi ư sơn hà Hiệp mưu tướng sĩ hữu chi công Điểm phong báo phong, điểm chi vi mạc tướng Hoàng gia cung đồ chu ứng gia phong Ngẫu tự mỹ tự khả gia phong Đại ý: Cùng phất cờ khởi nghĩa ở đất Lam Sơn, sống cũng ở Lam Sơn, chết cũng ở Lam Sơn. Thoát được vòng vây, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã được giữ lại và đã giành lại được giang sơn đất nước vào ngày 22 tháng 11 năm Đinh Mùi (1427). Giờ Thìn ngày 15 tháng 3 năm Mậu Thân (1428), Lê Lợi đăng quang, chính thức lấy niên hiệu là THUẬN THIÊN HOÀNG ĐẾ. Thuận Thiên Hoàng Đế thứ nhất (1428), Nhà vua truy phong tướng Lê Lai “Đệ nhất khai quốc công thần suy đồng hiệp đức mưu bảo chính Lũng Nhai công thần là Thiếu úy”.Thuận Thiên Hoàng Đế thứ hai – tháng 12 Kỷ Dậu (1429), Nhà vua sai Nguyễn Trãi viết 2 bản lời thề ước và nhớ ơn Lê Lai đặt vào hòm vàng và phong Thái úy, trân trọng đặt trong cung điện của mình... đồng thời chiếu chỉ cho thôn Dựng Tú lập đền thờ Ngài tại Làng Tép và cắt cho 10 mẫu điền để phục vụ tế lễ tứ thời bát tuyết. 


Ở sau đền còn giữ được nhiều cây cổ thụ có độ tuổi hàng trăm năm phong cảnh uy nghiêm, khí hậu ôn hòa quanh năm. Trước đền là hai cây đại, tương truyền có từ lúc Lê Lợi cho dựng đền. Qua cửa tam quan sẽ xuống hồ bán nguyệt, hồ có đường kính 60 mét. Bờ hồ có tường hoa lát gạch để bảo vệ hồ được lâu bền. Khi ta đi xuống mép nước qua các bậc, sẽ phát ra âm thanh vọng lại, thật là kỳ ảo. Các cụ quan niệm đó là nơi tụ Sơn, tụ Thủy. 

Cùng với Lê Lợi là rất nhiều nhân tài kiệt xuất trong đó có Lê Lai là tấm gương sáng mãi muôn đời về sau. Vì vậy, đền thờ Ngài từ lúc dựng lên, không lúc nào mất mùi hương thơm bay vào không gian lan tỏa bám vào các cây đại thụ lớn dần theo thời gian và lịch sử. Chùa Tép – Đền thờ TRUNG TÚC VƯƠNG LÊ LAI, hai tên nhưng là một, nơi tưởng niệm là nơi an nghỉ của anh hùng Lê Lai đã liều mình cứu chúa để tô vẽ thêm cho lịch sử Việt Nam ngày càng sáng chói. Vì thế, trong năm có hai ngày hội lớn là ngày 8 tháng giêng và ngày 21 tháng 8 Âm lịch, ngày đó gió thảm mưa sầu như thương tiếc người anh hùng vĩ đại vì nước quên mình cứu lấy giang sơn xã tắc thoát khỏi khổ đau loạn lạc. Đồng thời khách thập phương cũng kéo nhau về dự hội để tưởng nhớ công đức uy danh của Ngài. Ngoài ra, nhân dân làng Tép thông Dựng Tú còn phải hành lễ các ngày kỵ 29 tháng 4 Âm lịch và các tiết lễ: Kỳ yên; kỳ phúc; kỳ hòa; trung nguyên; cơm mới.... Thật tự hào làm sao các thế hệ hôm qua, hôm nay và mai sau !

T.S