Cẩm Thủy nằm trên con đường huyết mạch là quốc lộ 217 nối liền vùng Thượng
Lào với biển Đông. Quốc lộ 217 lại giao cắt với đường Hồ Chí Minh trên địa bàn
huyện nên đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho người dân Cẩm Thủy giao thương với
bên ngoài.
![]() |
Vùng đất địa linh nhân kiệt |
Từ Thành phố Thanh Hóa, ngược sang phía Tây Bắc chừng 60km để đến với xã Cẩm
Vân. Cẩm Vân chào đón du khách bằng một ngọn núi có hình dáng rất lạ mắt. Núi
có hình giống như một con cóc khổng lồ đang nhô ra uống nước, hay rình mồi từ
dòng sông Mã. Có lẽ, từ vẻ đẹp kỳ thú ấy mà người dân Cẩm Thủy gọi ngọn núi này
là Diệu Sơn (ngọn núi diệu kỳ).
Diệu Sơn cũng đã đi vào Đại Nam nhất thống chí: “Núi Diệu Sơn cách trung tâm
huyện Cẩm Thủy ba dặm, trước núi trông ra sông Mã, trên núi có động, trong động
có hai chữ lớn là: “Cẩm Vân”, cửa động có hai chữ lớn: “Diệu Trí” khắc vào đá,
nay vẫn còn”.
Ông Lê Quang Cừ (Phó Chủ tịch UBND xã Cẩm Vân), giới thiệu thêm: “Núi non ở
đây hùng vĩ lắm. Đến Cẩm Thủy, lên thăm động Cửa Hà trên núi Gấm ở xã Cẩm
Phong, cảnh ở đó rất đẹp. Cẩm Phong, Cẩm Thành … cũng là nơi sinh ra những
người con ưu tú của quê hương Cẩm Thủy”.
Tạo hóa hữu ý đã vẽ ra cho Cẩm Thủy một khung cảnh hữu tình, núi in sông,
sông lồng bóng núi, cây cối tươi xanh, mây trời lồng lộng. Phong cảnh ấy đã làm
say lòng cả nhà thơ Tố Hữu để ông viết được những vần thơ da diết thế này:
“Nắng vờn núi Gấm chênh chênh/ Sóng rờn sông Mã lượn quanh hàng đồi/ Thuyền
chài thôi kiếp dạt trôi/ Thong dong bè nứa, quẫy đuôi cá lồng/ Đôi bờ xanh nõn
ngô đông/ Chè nương lạc bãi, lúa đồng xum xuê/ Áo mầu vui mắt chợ quê/ Ai xa
Cẩm Thủy, có về lại lên!”.
![]() |
Thưởng thức món ăn dân dã |
Đến Cẩm Thủy, bạn hãy lên bản làng để được mời uống rượu cần bên bếp lửa bập
bùng và nghe những điệu Xường ngân nga, mê hoặc. Người Cẩm Thủy còn thết đãi
bạn những món ăn rất ngon như: cá trắm sông Mã hấp đu đủ, ếch hấp củ chuối và
nhất là món bánh lá.
Cụ Ninh Thị Tam (thôn Vân Trai, xã Cẩm Vân), năm nay đã 82 tuổi, vừa bóc chiếc
bánh lá mời tôi, vừa kể: “Bánh lá là đặc sản vùng này, thường được làm để cúng
giỗ, lễ Tết hoặc thết đãi khách đường xa. Ngày xưa, dân vùng này còn nghèo, khi
vua Lê Lợi đi qua họ chưa biết chọn thứ gì quý giá nhất để tiến Vua. Thế rồi,
họ nghĩ ra cách chọn thứ gạo ngon nhất vùng quê này, phải là gạo tẻ, giã nhuyễn
rồi gói với mộc nhĩ, nhân thịt và cuộn trong lá dong sau đó đem hấp lên. Không
ngờ, thứ bánh này được nhà Vua rất thích”.
Ban đầu, dân ở đây chưa biết gọi tên bánh là gì đành gọi một cách chung
chung là … bánh lá. Nó chung chung ở chỗ, ngày xưa, các cụ nhà ta gói bánh có
thứ bánh nào mà không dùng lá để bọc ngoài đâu! Thế rồi, mấy ông thợ cày đi làm
đồng về, vừa mệt vừa đói, được vợ đưa cho chiếc bánh liền bóc ra ăn ngay. Ăn
vào ấm lòng lắm, cơn đói qua nhanh, họ có thời gian để nhìn chiếc bánh. Chiếc
bánh vừa dài, vừa mảnh y như răng của chiếc bừa mà mình vừa vác về. Thế là, họ
gọi ngay loại bánh này bằng cái tên không có gì quê kiểng hơn: bánh răng bừa.
Nó quê kiểng và giản đơn từ nguyên liệu cho đến cách chế biến. Bánh phải làm
từ gạo tẻ có độ dẻo thơm cùng với thịt ba chỉ, mộc nhĩ, hành khô và một ít gia
vị. Tất cả các công đoạn làm bánh từ xay bột đến hấp bánh phải được thực hiện
thủ công thì mới ngon. Quê kiểng vậy thôi, chứ bánh lá hữu dụng lắm. Người ta
có thể dùng bánh lá để ăn chơi như một thứ quà quê, để thết đãi khách và cũng
có thể ăn thay cơm vì đã có chất của gạo tẻ quyện với thịt lợn rồi.
Dù có từ chối thế nào gia đình cụ Tam vẫn làm sẵn 100 chiếc bánh lá để gửi
tôi mang về làm quà. Cầm túi bánh trên tay mà sao thấy tình người rất nặng.
Hương thơm của bánh lá như nói với tôi về vùng quê Cẩm Thủy: nghèo khó vậy đấy,
đơn sơ vậy đấy, nhưng hiếu khách lắm thay!
Chia tay Cẩm Thủy trong một buổi chiều đã muộn, lòng tôi đầy lưu luyến. Cô
bạn thân tiễn tôi một đoạn rất xa. Chúng tôi đi bên nhau trên con đê dài ven
theo dòng sông Mã, mải miết đi sang đến tận huyện Yên Định lúc nào không hay.
Ngoái nhìn dòng sông lững lờ trôi xuôi, tôi nhớ đến Quang Dũng và đoàn quân Tây
Tiến, lòng chợt thương cho câu “Sông Mã xa rồi…”.